Trung bình mỗi năm cả nước đã giải quyết cho trên 1 triệu đến gần 2 triệu lao động có công ăn việc làm

Trong những năm gần đây, tạo việc làm là một trong những nội dung được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Các quy định trong Bộ luật Lao động 2012 và Luật Việc làm 2013 đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong và ngoài nước phát triển, các Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và gần đây là khuyến khích các chương trình, dự án khởi nghiệp. v.v. đã đạt được những thành công đáng kể. Trung bình mỗi năm cả nước đã giải quyết cho trên 1 triệu đến gần 2 triệu lao động có công ăn việc làm. Đồng thời, hệ thống pháp luật bước đầu xây dựng các chính sách tăng cường cơ hội việc làm cho người lao động yếu thế, lao động nghèo, lao động nông thôn, v.v.

Mặc dù vậy, áp lực tạo việc làm mới trong những năm gần đây vẫn còn khá lớn do số lao động tham gia thị trường hàng năm lớn hơn số việc làm tăng thêm. Năm 2017, LLLĐ tăng thêm 2,172 triệu người so với năm 2012 trong khi số người có việc làm trong cùng thời kỳ chỉ tăng 1,98 triệu người. Bên cạnh một số ngành, nghề người lao động có việc làm ngay sau khi được đào tạo như: Hàn (92%), Điện công nghiệp (88%), Kỹ thuật khai thác mỏ hầm lò (94%), May công nghiệp (95%), Du lịch (90%), tình trạng người có trình độ cao - người lao động đã tốt nghiệp cao đang, đại học không tìm được việc hoặc làm việc không đúng ngành nghề đào tạo vẫn còn khá ph biến.

Cùng với đó, cơ cấu việc làm hiện nay ở nước ta vẫn còn bị đánh giá là lạc hậu với sự tồn tại của một bộ phận lớn lao động phi chính thức. Xem xét tỷ lệ lao động phi chính thức trong tổng số lao động năm 2016 cho thấy quy mô của lao động phi chính thức khá lớn với trên 18 triệu người, chiếm 57,2 % tổng số lao động phi nông nghiệp và 78,6% nếu tính cả lao động trong khu vực hộ nông nghiệp.

Công tác xúc tiến đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đóng vai trò quan trọng không chỉ để giải quyết việc làm, mà còn góp phần nâng cao thu nhập, đảm bảo nguồn dự trữ ngoại tệ quốc gia và bước đầu đưa TTLĐ Việt Nam hội nhập với quốc tế. Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài năm 2006 (còn gọi là Luật số 72) và hệ thống các văn bản hướng dẫn đã tạo lập hành lang pháp lý đồng bộ để điều chỉnh hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Trong giai đoạn 2011-2018, mỗi năm nước ta đưa được trên 100 ngàn lao động đi làm việc ở nước ngoài. Việt Nam trở thành một trong số những nước có lượng kiều hối lớn từ người lao động ở nước ngoài gửi về, khoảng 2-2,5 tỷ USD/năm. Tuy nhiên, vấn đề nổi cộm trong hoạt động này là về chất lượng nguồn lao động còn thấp, chưa đáp ứng tốt nhu cầu của người sử dụng lao động nước ngoài cả về tay nghề chuyên môn, khả năng ngoại ngữ và ý thức tuân thủ pháp luật, tuân thủ hợp đồng dẫn đến nguy cơ mất đối tác, mất cơ hội ký hợp đồng cung ứng lao động, giảm tính cạnh tranh với lao động của các quốc gia khác.

Chính sách tiền lương trong thời gian qua đã được ban hành và cải cách theo thực tế của thị trường và đảm bảo công bằng trên nguyên tắc trả lương theo thỏa thuận căn cứ trên năng suất lao động, đóng góp thực tế của người lao động, và chất lượng và hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Chính sách tiền lương tối thiểu cho người lao động nhằm đảm bảo chi tiêu cho nhu cầu cơ bản của cuộc sống được điều chỉnh định kỳ theo chỉ số giá cả thị trường đã giúp tiền lương trung bình hàng tháng của lao động làm công ăn lương tăng từ 295.000 đồng năm 1999 lên mức 3.867.000 đồng/người/tháng. Hạn chế lớn nhất về vấn đề tiền lương hiện nay là quá trình thể chế hóa quan điểm, chủ trương cải cách chính sách tiền lương chưa đầy đủ và thực hiện chưa nghiêm, thể hiện trên rất nhiều mặt: (i) mức tiền lương tối thiểu chưa đảm bảo được cuộc sống của người lao động ở nhiều địa phương; cũng như tính hình thức còn khá cao vì phạm vi áp dụng trên thực tế thị trường lao động còn rất nhỏ; (ii) cơ chế phân phối tiền lương đoi mới chậm, không theo kịp cơ chế quản lý kinh tế trong kinh tế thị trường; (iii) cơ chế thương lượng, thỏa thuận về tiền lương chưa đảm bảo đúng nguyên tắc thị trường và phát huy được tác dụng, còn hình thức.

Nguồn cung lao động trên TTLĐ nước ta có sự phát triển không ngừng cả về số lượng và chất lượng với nhiều ưu điếm nổi bật

Quy mô dân số tăng từ 66 triệu người năm 1990 lên 94,67 triệu người năm 2018 với mức sinh thay thế ổn định đảm bảo bổ sung liên tục hàng năm cho lực lượng lao động. Lực lượng lao động dồi dào cùng giá nhân công rẻ vẫn là một lợi thế cạnh tranh của TTLĐ Việt Nam so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Cơ cấu dân số trẻ với tỷ số phụ thuộc chung là 48,5% năm 2018 là bằng chứng cho thấy lực lượng lao động có đủ thế lực và trí lực đế tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ thế giới. Tuy nhiên, cơ cấu dân số Việt Nam đã bắt đầu bước vào thời kỳ “hậu dân số vàng” với xu hướng già hóa dân số nhanh trong tương lai gần. Những năm gần đây, chỉ số già hóa có xu hướng tăng mạnh, từ 24,3% năm 1999 lên 56,9% năm 2018. Mặc dù đã hưởng lợi thế của cơ cấu dân số vàng được khoảng 15 năm nhưng những lợi ích thu được từ cơ cấu dân số vẫn còn rất khiêm tốn. Điều này đặt nặng lên vai cơ quan quản lý nhà nước nhiệm vụ đề ra các giải pháp hiệu quả để khai thác tối đa lợi thế này trong thời gian tới.

Hạn chế lớn nhất của nguồn cung lao động trong nước là về trình độ chuyên môn và tay nghề của người lao động. Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014 được ban hành thay thế cho Luật Dạy nghề 2006, đã thể chế hóa mạnh mẽ chủ trương đi mới căn bản, toàn diện giáo dục nghề nghiệp (GDNN) dưới sự quản lý của Nhà nước. Theo báo cáo kết quả Tổng điều tra kinh tế năm 2017, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo giảm từ 34,7% năm 2012 còn 28,7% của năm 2017; tỷ lệ lao động được đào tạo tăng hơn từ 17,9% ở trình độ đại học, 4,9% ở trình độ cao đẳng, 9,7% trung cấp và 6,8% sơ cấp lên tương ứng lần lượt là 18,4%, 6,7%, 10,7% và 8,8%. Ngoài ra, dạy nghề cho lao động nông thôn cũng được chú trọng với khoảng 6 triệu lao động nông thôn được học nghề trong 9 năm từ 2010 - 2018. Mặc dù vậy, tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ theo các cấp trình độ lại thể hiện sự bất hợp lý. Tỷ lệ lao động có trình độ đại học trở lên trong tổng lực lượng lao động chiếm 9,09%, hơn hẳn tỷ lệ lao động có trình độ cao đẳng là 3,17%, trung cấp là 5,42% và sơ cấp nghề là 3,53%. Thực trạng này mâu thuẫn với thực tế là nhu cầu về lao động tay nghề cao của các doanh nghiệp tương đối cao trong khi tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi vẫn không thể giảm.

Hơn thế nữa, cơ cấu tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp còn bất cập, chủ yếu vẫn là trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng (chiếm gần 76%), trình độ trung cấp, cao đẳng chỉ chiếm khoảng 24%. Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn vẫn chưa thực sự gắn với đào tạo tại các doanh nghiệp, với quy hoạch phát triển vùng chuyên canh, vùng sản xuất hàng hoá tập trung, vùng có dự án hỗ trợ phát triển sản xuất.

QR Code
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
 
Thống kê truy cập
  • Đang online: 0
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 0
  • Tất cả: 0
image advertisement
image advertisement
image advertisement

Cổng Thông tin điện tử thành phố Hải Phòng

Cơ quan quản lý: Văn phòng Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng

Trưởng Ban biên tập: Chánh Văn phòng Trần Huy Kiên

 
 

Liên hệ

  18 Hoàng Diệu, Minh Khai, Hồng Bàng, Hải Phòng

  0225.3821.055 -   0225.3747.352

  congthongtindientu@haiphong.gov.vn

  fb.com/www.haiphong.gov.vn

  Zalo Cổng Thông tin điện tử thành phố