Đền An Lư
Sử
liệu cũ thu thập tại địa phương cho thấy: vào thời Trần Duệ Tông (1370-1377),
cụ tổ họ Phạm tên Viết Trinh, vốn là thương gia, dẫn 5 người thuộc các họ: Bùi,
Nguyễn, Vũ, Hoàng đi qua vùng đất phía Đông huyện Thuỷ Đường (tên gọi cũ của
Thuỷ Nguyên ngày nay), nhận thấy đất đai nơi đây rộng rãi nhưng dân cư còn rất
thưa thớt. Họ liền bàn bạc, đồng lòng cam kết lập thành khu vực mới để ở. Sau
đó, từ quê nhà cũ ở Cẩm Giàng, có nhiều người tiếp tục theo đến khai phá đất
đai, lập xóm, dựng làng ngày thêm đông đúc. Gia phả của các dòng họ chuyển cư
này được các thế hệ con cháu lưu truyền, suy tôn cụ tổ Phạm Viết Trinh là người
có công đầu trong việc thăm dò, tổ chức khai phá đất đai lập lên làng xóm An Lư
ngày nay. Chuyển dân cư xuống vùng đất xóm ven sông Cấm được 7 năm, dân làng
liên tiếp có nhiều người bị dịch bệnh, đau ốm liên miên, lòng hoang mang, định
trở về nơi cũ làm ăn, sinh sống. Khi bình tâm nhớ lại quê nhà, có môn thuốc
bằng cây cỏ đem sao vàng, hạ thổ, rồi sắc uống. Bài thuốc hay do chính vị đại
danh y Tuệ Tĩnh truyền lại, mọi người bảo nhau làm theo lời dặn, quả nhiên dịch
bệnh bị đẩy lùi, dân cư được yên ổn. Năm đó, tại khu vực đồng Sim, dân làng lập
ngôi đền nhỏ để thờ danh y, lại đặt chữ cho làng là An Lư có nghĩa là làng yên
ổn, tên nôm là Xưa. Lập lại chợ Xưa, dựng thêm cây cầu 7 nhịp bắc bằng gỗ lim
cho dân đi lại qua ngòi nước chảy ra sông Cấm để gợi nhớ hình ảnh quê hương cũ.
Trước đây, tại mảnh đất An Lư còn có nhiều công trình di tích khác như miếu Hổ,
bến Bút, đình Chung được dân làng nhiều lần tổ chức nghi lễ liên quan đến việc
tuyên ruyền, phổ biến phương pháp chữa bệnh bằng cỏ cây, thảo dược, lưu truyền
những bài thuốc hay của vị đại danh y Tuệ Tĩnh. Trải qua thời gian, chiến
tranh, thiên nhiên khắc nghiệt đã huỷ hoại hoàn toàn những di tích ban đầu của
làng tôn thờ danh y Tuệ Tĩnh. Đầu năm 1948, dân làng An Lư đã rước thành hoàng
đại danh y Tuệ Tĩnh về phối thờ tại ngôi đền An Bạch, là nơi dân làng tôn thờ
vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn và các con trai tại vị trí di tích hiện nay.
Pho tượng đại danh y Tuệ Tĩnh được các nghệ nhân dân gian tạo tác bởi bàn tay
điêu nghệ, giàu tính nghệ thuật truyền thống Việt Nam. Tượng tạo gần bằng người
thật theo lối tượng tròn, trang trọng trong sắc phục quan văn cuối thế kỷ XIX.
Đền
An Lư hiện nay còn lưu giữ nhiều hiện vật quý như: hệ thống văn bia gồm: Thứ Vị
Liệt Danh bi ký niên hiệu Hoằng Định 15 đời vua Lê Kính Tông (năm 1616), Hậu
Thần bi ký niên hiệu Cảnh Hưng 32 đời Vua Lê Hiển Tông (1772), Khai sáng Đồng
Điền bi ký niên hiệu Tự Đức 7 (1855), bản Giáp phối hậu bi ký niên hiệu Tự Đức
19 (1867), Phối Hưởng bi ký niên hiệu Tự Đức 21 (1869) và Tiên Hiền bi ký niên
đại khoảng thế kỷ 17. Đền còn lưu giữ Bản Huyện từ Chung (Chuông của Từ chỉ
huyện) được đúc năm Tự Đức 33 (1880), đây là quả chuông của văn miếu huyện Thủy
Nguyên được đặt tại xã An Lư, do thời tiết khắc nghiệt, sự tàn phá của chiến
tranh, văn miếu bị hủy hoại chuông được chuyển về đền An Lư. Ngoài ra, đền còn
lưu giữ nhiều hiện vật quý như: bộ long ngai, thần tượng, hoành phi, câu đối,
bộ chấp kinh... có niên đại cuối thời Nguyễn.
Đối
với sắc phong trước năm 1938, đền lưu giữ 7 sắc phong bao gồm 4 sắc phong Tuệ
Tính các niên hiệu Tự Đức 6 (1853), Đồng Khánh 2 (1887), Duy Tân 3 (1909), Khải
Định 9 (1924), 1 sắc phong Khải Định 9 (1924) cho Trần Quốc Tảng và 2 sắc phong
Khải Định 2 (1917) và Khải Định 9 (1924) cho Đoàn Thượng, hiện nay các sắc
phong được lưu giữ tại đền.
Lễ
hội làng An Lư hàng năm diễn ra từ ngày 11/11 Âm lịch. Tuỳ theo điều kiện mà lễ
hội có thể kéo dài từ 3 ngày đến 5 ngày. Điều đặc biệt cho cả huyện Thuỷ Nguyên
và riêng làng An Lư là ngoài lễ hội tưởng niệm đại danh y diễn ra tại ngôi đền
thờ ông, còn bảo lưu truyền thống văn hoá mang đậm bản sắc địa phương như: họp
phiên chợ Xưa vào sáng mùng 1 tết Nguyên Đán, có đủ các sản vật địa phương và
nhiều miền quê trù phú khác. Tại đây, nhân mùa xuân mới người ta gặp gỡ, chúc
tụng nhau những điều tốt lành, hy vọng một năm mới gặp nhiều may mắn, thuận lợi
trong suốt cả một năm. Đền An Lư được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hoá
năm 1990.
(Du lịch Hải Phòng)