Quy định về trách nhiệm bồi thường khi bị tai nạn lao động
Hỏi:
Tôi làm việc tại một công ty TNHH đã hơn 3 năm mà chưa được ký hợp đồng lao động.
Vừa qua tôi bị tai nạn lao động (cụt một ngón tay giữa bên trái). Trong thời
gian điều trị tại bệnh viện, công ty không chi trả bất cứ một khoản tiền
viện phí nào và sau khi điều trị cũng không hỗ trợ hay bồi thường. Tôi xin hỏi, công ty thực hiện như vậy
có đúng quy định không? Nếu không đúng tôi phải làm gì để bảo vệ quyền lợi của
mình?
Trả lời:
Theo quy định của pháp luật về lao động,
trước khi nhận người lao động vào làm việc, người sử dụng lao động và người lao
động phải trực tiếp giao kết hợp đồng lao động (HĐLĐ). HĐLĐ phải được giao kết
bằng văn bản và được làm thành 2 bản, người lao động giữ 1 bản, người sử dụng
lao động giữ 1 bản. HĐLĐ phải có những nội dung chủ yếu sau đây:
- Tên và địa chỉ người sử dụng lao động hoặc
của người đại diện hợp pháp.
- Họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, địa
chỉ nơi cư trú, số chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ hợp pháp khác của người lao
động.
- Công việc và địa điểm làm việc.
- Thời hạn của HĐLĐ.
- Mức lương, hình thức trả lương, thời hạn
trả lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác.
- Chế độ nâng bậc, nâng lương.
- Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.
- Trang bị bảo hộ lao động cho người lao
động.
- Bảo hiểm xã hội (BHXH) và bảo hiểm y tế.
- Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ
năng nghề.
Trách nhiệm của người
sử dụng lao động với người bị tai nạn lao động
Điều 144 Bộ luật Lao động quy định trách
nhiệm của người sử dụng lao động đối với người bị tai nạn lao động (TNLĐ) như
sau:
- Thanh toán phần chi phí đồng chi trả và
những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người
lao động tham gia bảo hiểm y tế và thanh toán toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu,
cấp cứu đến khi điều trị ổn định đối với người lao động không tham gia bảo
hiểm y tế.
- Trả đủ tiền lương theo HĐLĐ cho người lao
động bị TNLĐ phải nghỉ việc trong thời gian điều trị.
- Bồi thường cho người lao động bị TNLĐ
theo quy định tại Điều 145 của Bộ luật này.
Quyền của người lao
động bị tai nạn lao động
Điều 145 Bộ luật Lao động quy định quyền của
người lao động bị TNLĐ như sau:
- Người lao động tham gia BHXH bắt buộc được
hưởng chế độ TNLĐ theo quy định của Luật BHXH.
- Người lao động thuộc đối tượng tham gia
BHXH bắt buộc mà người sử dụng lao động chưa đóng BHXH cho cơ quan BHXH, thì
được người sử dụng lao động trả khoản tiền tương ứng với chế độ TNLĐ theo quy
định của Luật BHXH.
Việc chi trả có thể thực hiện một lần hoặc
hằng tháng theo thỏa thuận của các bên.
Người lao động bị TNLĐ, bệnh nghề nghiệp mà
không do lỗi của người lao động và bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên
thì được người sử dụng lao động bồi thường với mức như sau:
- Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương theo HĐLĐ
nếu bị suy giảm từ 5,0% đến 10% khả năng lao động; sau đó cứ tăng 1,0% được
cộng thêm 0,4 tháng tiền lương theo HĐLĐ nếu bị suy giảm khả năng lao động từ
11% đến 80%.
- Ít nhất 30 tháng tiền lương theo HĐLĐ cho
người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân
người lao động bị chết do TNLĐ.
- Trường hợp do lỗi của người lao động thì
người lao động cũng được trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức quy định
tại khoản 3 Điều này.
Trường hợp bạn được nhận vào làm việc tại một
Công ty TNHH nhưng hơn 3 năm mà chưa được ký HĐLĐ bằng văn bản, chưa
được Công ty đóng BHXH, đó là các hành vi vi phạm pháp luật, Công ty có
thể bị xử phạt vi phạm hành chính và buộc phải khắc phục hậu quả theo quy định
tại Nghị định số 95/2013/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh
vực lao động, BHXH.
Bạn bị TNLĐ, cụt một ngón tay giữa bên trái,
nhưng không được Công ty chi trả bất cứ khoản tiền nào. Do vậy đề nghị bạn đối
chiếu quy định tại Điều 144, Điều 145 Bộ luật Lao động để rõ trách nhiệm của
Công ty và quyền lợi của mình khi TNLĐ.
Nếu Công ty không thực hiện đúng quy định đó,
bạn có thể trực tiếp hoặc thông qua tổ chức công đoàn cơ sở để yêu cầu Giám đốc
Công ty thực hiện đúng; hoặc có đơn gửi Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội
nơi Công ty có trụ sở chính yêu cầu cử hòa giải viên để hòa giải tranh chấp.