Có được ủy quyền thực hiện việc
đăng ký kết hôn?
Hỏi: Bà
Trịnh Thị Thủy (Hải Phòng) đã tổ chức đám cưới nhưng chưa thực hiện thủ tục
đăng ký kết hôn. Bà Thủy hỏi, bà có thể ủy quyền cho cha mẹ hai bên đi đăng ký
kết hôn ở nơi đăng ký thường trú được không hoặc bà có thể thực hiện đăng ký kết
hôn tại đơn vị công tác không?
Trả lời
Theo Điều 11, Điều 12, Điều 14 Luật Hôn
nhân và gia đình (HNGĐ) quy định:
Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền (gọi tắt là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo
nghi thức quy định tại Điều 14 của Luật này. Mọi nghi thức kết hôn không theo
quy định tại Điều 14 của Luật này đều không có giá trị pháp lý.
Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống
với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Vợ chồng
đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn.
- Thẩm quyền đăng ký kết hôn: UBND xã, phường,
thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn.
Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh
sự Việt Nam ở nước ngoài là cơ quan đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với
nhau ở nước ngoài.
- Nghi thức kết hôn: Khi tổ chức đăng ký kết
hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện cơ quan đăng ký kết hôn yêu cầu
hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại
diện cơ quan đăng ký kết hôn trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên.
Thủ tục đăng ký kết hôn:
Thủ tục đăng ký kết hôn được quy định tại
Điều 18 Nghị định số158/2005/NĐ-CP trong đó có khoản 2, Điều này đã được sửa đổi
theo khoản 2, Điều 1 Nghị định số06/2014/NĐ-CP như sau:
Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải
nộp Tờ khai (theo mẫu quy định) và xuất trình Giấy chứng minh nhân dân.
Trong trường hợp một người cư trú tại xã,
phường, thị trấn này, nhưng đăng ký kết hôn tại xã, phường, thị trấn khác, thì
phải có xác nhận của UBND cấp xã, nơi cư trú về tình trạng hôn nhân của người
đó.
Đối với người đang trong thời hạn công
tác, học tập, lao động ở nước ngoài về nước đăng ký kết hôn, thì phải có xác nhận
của Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam tại nước sở tại về tình trạng hôn nhân
của người đó.
Đối với cán bộ, chiến sĩ đang công tác
trong lực lượng vũ trang, thì thủ trưởng đơn vị của người đó xác nhận tình trạng
hôn nhân.
Việc xác nhận tình trạng hôn nhân nói trên
có thể xác nhận trực tiếp vào Tờ khai đăng ký kết hôn hoặc bằng Giấy xác nhận
tình trạng hôn nhân.
Việc xác nhận tình trạng hôn nhân có giá
trị 6 tháng, kể từ ngày xác nhận.
Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận đủ
giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy hai bên nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định
của Luật Hôn nhân và gia đình, thì UBND cấp xã đăng ký kết hôn cho hai bên nam,
nữ.
Trong trường hợp cần phải xác minh, thì thời
hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.
Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải
có mặt. Đại diện UBND cấp xã yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn,
nếu hai bên đồng ý kết hôn, thì cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào sổ đăng ký kết
hôn và Giấy chứng nhận kết hôn. Hai bên nam, nữ ký vào Giấy chứng nhận kết hôn
và sổ đăng ký kết hôn, Chủ tịch UBND cấp xã ký và cấp cho mỗi bên vợ, chồng một
bản chính Giấy chứng nhận kết hôn, giải thích cho hai bên về quyền và nghĩa vụ
của vợ, chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Bản sao Giấy chứng
nhận kết hôn được cấp theo yêu cầu của vợ, chồng.
Việc ủy
quyền
Tại Điều 10 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP đã
được sửa đổi theo khoản 3, Điều 1 Nghị định số 06/2012/NĐ-CP quy định về ủy quyền
đăng ký hộ tịch như sau: Người có yêu cầu đăng ký hộ tịch (trừ trường hợp đăng
ký kết hôn, đăng ký giám hộ, đăng ký việc nhận cha, mẹ, con) hoặc yêu cầu cấp
các giấy tờ về hộ tịch mà không có điều kiện trực tiếp đến cơ quan đăng ký hộ tịch,
thì có thể ủy quyền cho người khác làm thay. Việc ủy quyền phải bằng văn bản và
phải được công chứng hoặc chứng thực hợp lệ.
Nếu người được ủy quyền là ông, bà, cha, mẹ,
con, vợ, chồng, anh, chị, em ruột của người ủy quyền, thì không cần phải có văn
bản ủy quyền, nhưng phải có giấy tờ chứng minh về mối quan hệ nêu trên.
Trường hợp bà Trịnh Thị Thủy đã tổ chức
đám cưới nhưng chưa thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan đăng ký kết
hôn có thẩm quyền, như vậy cho đến thời điểm này, ông bà chưa được pháp luật
công nhận là vợ chồng.
Việc đăng ký kết hôn là quan hệ nhân thân
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý mà chỉ có các chủ thể trong quan hệ đó
mới được quyền quyết định có xác lập quan hệ đó hay không, do đó không thể uỷ
quyền cho người khác quyết định thay mình. Khi xác lập quan hệ hôn nhân, hai
bên nam, nữ phải trực tiếp có mặt tại cơ quan đăng ký kết hôn để bày tỏ ý muốn
tự nguyện kết hôn của mình, chứ không thể uỷ quyền cho người khác nhân danh
mình làm thay.
Căn cứ quy định tại Điều 10 Nghị định số
158/2005/NĐ-CP đã được sửa đổi theo khoản 3, Điều 1 Nghị định số 06/2012/NĐ-CP,
thì 4 trường hợp không được phép thực hiện uỷ quyền khi đăng ký hộ tịch là:
đăng ký kết hôn, đăng ký giám hộ, đăng ký việc nhận cha, mẹ, con. Theo đó, ông
bà không thể thực hiện việc ủy quyền cho cha mẹ hai bên nhân danh ông, bà để
đăng ký kết hôn.
Nếu ông, bà đang cùng chung sống tại nơi
đăng ký tạm trú, mà thực sự không thể bố trí được thời gian về nơi đăng ký thường
trú để đăng ký kết hôn, thì có thể thực hiện việc đăng ký kết hôn tại nơi đăng
ký tạm trú, nhưng phải có Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của UBND nơi đăng
ký thường trú.
Căn cứ Điều 10 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP
đã được sửa đổi theo khoản 3, Điều 1 Nghị định số 06/2012/NĐ-CP thì việc xin cấp
Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân là loại việc hộ tịch được uỷ quyền. Cha, mẹ của
ông bà chỉ cần có một trong các giấy tờ chứng minh họ là cha đẻ, mẹ đẻ của ông
bà (như Sổ hộ khẩu gia đình hoặc Giấy khai sinh…) là có thể thực hiện việc yêu
cầu UBND xã nơi đăng ký thường trú cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho
ông, bà (mà không cần phải lập giấy ủy quyền có công chứng, chứng thực).
Khi cha mẹ của hai bên gửi Giấy xác nhận
tình trạng hôn nhân của UBND nơi đăng ký thường trú cho ông bà, thì ông bà có
thể đăng ký kết hôn tại UBND cấp xã nơi đăng ký tạm trú theo quy định tại khoản
1, Điều 18 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP (nêu trên).
Ông bà cũng cần lưu ý, theo quy định của
pháp luật về HNGĐ và pháp luật về đăng ký, quản lý hộ tịch thì đơn vị nơi ông
bà công tác, làm việc không có thẩm quyền đăng ký kết hôn.