Tuệ Trung Thượng Sĩ

Tuệ Trung Thượng Sĩ

Ông là người Tức Mặc, phủ Thiên Trường, nay thuộc tỉnh Nam Định. Ông là con trưởng của An Sinh vương Trần Liễu (nguyên tác chép An Ninh vương)[2], anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm húy Thiều, vợ vua Trần Thánh Tông[3].


Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 2 (1285) và lần 3 (1287-1288), ông đều trực tiếp tham gia [4]. Sử chép rằng ngày 10 tháng 6 năm 1285, ông cùng với Hưng Đạo Vương đem hơn hai vạn quân giao chiến với tướng nhà Nguyên là Lưu Thế Anh và đuổi Thoát Hoan chạy dài đến sông Như Nguyệt (sông Cầu). Trong cuộc kháng chiến lần thứ ba, ông còn được giao những nhiệm vụ ngoại giao quan trọng, từng đến đồn trại đối phương vờ ước hẹn trá hàng, làm cho họ mất cảnh giác, sau đó cho quân đến đánh phá[cần dẫn nguồn].

Sau khi kháng chiến thành công, ông được phong chức Tiết độ sứ cai quản phủ Thái Bình. Nhưng không lâu sau ông lại lui về ấp Tịnh Bang (nay ở huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng) lập Dưỡng Chân trang để theo đuổi nghiệp thiền.

Năm 1291, Tuệ Trung thượng sĩ mất, thọ 61 tuổi.

Thời trẻ, ông không thích công danh, chỉ ham nghiên cứu về Thiền. Sau, ông học đạo với thiền sư Tiêu Dao, vừa thực hành giải thoát tâm trong đời sống gia đình theo hình thức cư sĩ, vừa đảm trách các công việc xã hội mà triều đình giao phó. Ông được vua Trần Thánh Tông nể vì do kiến thức uyên bác về nội ngoại điển, được vua tôn làm đạo huynh. Ông sáng tác nhiều thi, kệ; một số được kiết tập trong "Thượng sĩ ngữ lục" (Ngữ lục của Thượng sĩ) rất nổi tiếng

Do sinh ra trong một gia đình có nhiều nghịch cảnh, sớm được theo học thiền sư Tiêu Dao và lại trực tiếp tham dự vào những thời khắc quyết định vận mệnh đất nước nên ông nhận rõ chân tính cuộc đời và chọn lối sống hòa ái, tự tại. Tư tưởng chính của Tuệ Trung Thượng sĩ thể hiện qua lời đáp dành cho câu hỏi tông chỉ thiền là gì của vua Trần Nhân Tông: "Hãy quay về tự thân mà tìm lấy tông chỉ ấy, không thể đạt được từ ai khác" [5].

Tuệ Trung Thượng Sĩ người có được một phong thái siêu việt độc đáo, sống giữa cuộc đời trong sự tự do phóng khoáng không hề bị lệ thuộc. Ông bước vào trần gian sống như tất cả mọi người nhưng, với phong thái Thiền Sư vượt ra ngoài những hệ lụy, không đắm chìm trong danh sắc, cởi tung những triền phược mà con người bình thường không thể lãnh hội và làm được.

Thượng Sĩ có tất cả, như tất cả những con người cư ngụ trên mặt đất đã có, nhưng Thượng Sỹ lại có cái “không” mà những người cư ngụ trên mặt đất không hề có. Cái không ấy là bản năng tuyệt luân vượt ra ngoài định kiến, phán đoán suy luận, gò bó trong mọi định thước. Hành hoạt một cách siêu dị không câu nệ chấp trước, chỉ tìm thấy trong những con người đạt được sự chứng ngộ giải thoát ở nội tâm.

Tuệ Trung đi vào vuộc đời, sống với cuộc đời với con người để từ đó hoán chuyển mọi tăm tối, hành động nầy là việc làm của những Bồ Tát mang đại nguyện trùm kín cả vũ trụ, hy sinh thân mạng để xoa dịu những thống khổ đang bao phủ vùng trời tâm linh mà con người đang trực diện. Giá trị đó được tiềm ẩn qua con người Thượng Sĩ, ông đã từng đem bản thân mình ngăn chận những cuộc xâm lăng của nhà Nguyên. Đã từng được phong tước Hưng Ninh Vương. Nhưng ông vứt tất cả còn lại phong cách Thiền Sư, đối diện với trần thế bằng tình thương bao dung, không bị giới hạn. Trộn lẫn với cuộc đời hay không, vượt thoát hay đắm chìm trong tử sinh, bỏ tung tất cả hay gánh trọn trên đôi vai. Đối với những người giác ngộ, thực chứng thì hành động nào cũng đều ung dung thanh thoát giữa dòng đời trôi nổi. Với những kẻ siêu việt nầy, tất cả chỉ là ảo ảnh, phù vân một trò đùa được dựng nên từ hý trường, đâu đó bỗng chốc phiêu bồng như chính cái hiện hữu phi thực của nó. Những tăm tối trầm luân tạo đau khổ cho những ai trong cuộc. Tuệ Trung Thượng Sĩ đã từ đó mà đi ra nên ung dung tự tại, vung tay là bóng tối liền tan, mở miệng là ngàn hoa phơi sắc, và nhắm mắt là tịch nhiên chiếu rọi.

Bóng dáng nào mà không bị đẩy lùi, hình ảnh nào mà không tan hủy. Nhưng, con người và ảnh tượng của Tuệ Trung trở nên siêu thực, tồn tại trong hố thẳm ngàn hoa, nên mãi là biểu tượng cho những kẻ muốn đạt đến một thứ tự do siêu nghĩa, trong việc tìm thấy ánh sáng chiếu rọi của thực chứng.

Sự tự do độc nhất mà Tuệ Trung có được, là vượt ra ngoài định mức tự do. Ở đó còn duy nhất kẻ đứng chơ vơ giữa đất trời, không bóng dáng hình tượng nào chung quanh, nếu có cũng chỉ là thể dụng hiển hiện của tâm thức vượt tung. Không bao giờ có thể đo lường ngăn ngại được tâm tư vĩ đại của Tuệ Trung, kẻ đã tự do rong chơi dạo khắp nẽo luân hồi, chưa một lần chùng bước trước những thử thách.

Một hôm, hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm mở tiệc trong cung điện. Trên bàn có cả thức ăn mặn và thức ăn chay. Tuệ Trung Thượng sĩ gắp thức ăn không phân biệt chay hay mặn. Hoàng thái hậu hỏi: "Anh tu Thiền mà ăn thịt cá thì làm sao thành Phật được ?" Ông cười đáp: "Phật là Phật, anh là anh. Anh không cần thành Phật. Phật cũng không cần thành anh. Em không nghe các bậc cổ đức nói: Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát đó sao?" Trong bữa tiệc này có vua Trần Nhân Tông; vua rất thắc mắc về việc này và chưa hiểu rõ ý nghĩa câu trả lời của Tuệ Trung Thượng sĩ, nhưng chưa tiện hỏi[1].

image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement

image advertisement

 

Thống kê truy cập
  • Đang online: 0
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 0
  • Tất cả: 0
image advertisement
image advertisement

Cổng Thông tin điện tử thành phố Hải Phòng

Cơ quan quản lý: Văn phòng Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng

Trưởng Ban biên tập: Chánh Văn phòng Trần Huy Kiên

 
 

Liên hệ

  18 Hoàng Diệu, Minh Khai, Hồng Bàng, Hải Phòng

  0225.3821.055 -   0225.3747.352

  congthongtindientu@haiphong.gov.vn

  fb.com/www.haiphong.gov.vn

  Zalo Cổng Thông tin điện tử thành phố