Mạc
Thái Tông (chữ Hán: 莫太宗; (1500 – 1540)
Mạc Thái Tông (chữ Hán: 莫太宗; (1500 – 1540) là vị vua thứ hai của
nhà Mạc, ở ngôi từ năm 1530 đến 1540. Ông tên thật là Mạc Đăng Doanh (莫登瀛), là người xã Cao
Đôi, huyện Bình Hà (nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách), tỉnh Hải
Dương, Việt Nam.
Mạc Đăng Doanh là con trưởng của Thái Tổ Mạc Đăng Dung sinh
năm 1500 tức năm..., khi Mạc Đăng Dung nắm quyền, ông được phong làm Dục Mỹ hầu,
giữ điện Kim Quang. Khi Mạc Thái Tổ lên ngôi, ông được lập làm Thái tử.
Ngày tết nguyên đán năm Canh Dần (1530), Mạc Thái Tổ truyền
ngôi cho ông và lên làm Thái thượng hoàng.
Từ năm 1529, con Thái An công chúa nhà Hậu Lê là Lê Ý khởi
binh ở Thanh Hoá. Mạc Thái Tổ mang quân đi đánh bị thua trận phải rút về.
Tháng 8 năm 1530, sau khi lên ngôi, Mạc Thái Tông hội binh ở huyện
Hoằng Hoá đánh Lê Ý, sai Mạc Quốc Trinh lĩnh thuỷ quân đi trước. Ý đón đánh được
cả hai đạo quân Mạc. Mạc Thái Tông phải án binh cố thủ. Tháng 11 năm đó, Thái
Tông sai Quốc Trinh ở lại cầm quân còn mình rút về kinh thành. Lê Ý thắng liền
mấy trận có ý chủ quan, bị Quốc Trinh bắt được giải về kinh giết chết.
Đầu năm 1531, Nguyễn Kim khởi binh chống Mạc ở Ai Lao, mang
quan về đánh Thanh Hoá. Thái Tông sai Tây quốc công Nguyễn Kính vào đánh. Nguyễn
Kim đánh thắng được Nguyễn Kính hai trận, chia quân giữ các huyện. Tháng 9, trời
đổ mưa nhiều, quân Mạc thừa cơ dùng thuỷ quân tiến đánh, quân Nguyễn Kim rối loạn
phải rút về Ai Lao.
Năm 1533, Nguyễn Kim lập Lê Duy Ninh lên ngôi tại đất Ai Lao,
tức là vua Lê Trang Tông, tái lập nhà Lê TRUNG HUNG. Hiệu uý Nguyễn Nhân Liễn
khởi binh ở Thuận Hoá chống Mạc. Mạc Thái Tông sai tướng đi đánh không dẹp được.
Năm 1535 ngày 16 tháng 2 cử Hoàng quận công tức Mạc Đăng Lượng
cùng em Mạc tuấn Ngạn vào trấn thủ Hoan châu, phủ Anh Đô, huyện Nam đường định
đô tại xứ Tiên Đô (Đền Tiên Đô) vùng Đô Đặng, Tổng Đặng sơn. (nay thuộc 3 xã Đặng
sơn, Nam sơn, Bắc sơn thuộc huyện Đô lương tỉnh Nghệ an)
Năm 1537, trấn thủ Thanh Hoá là Tây An hầu Lê Phi Thừa đánh
phá tam ty nhà Mạc do Trung Hậu hầu cai quản rồi chạy sang Ai Lao đầu hàng nhà
Lê.
Năm 1539, quân nhà Lê từ Ai Lao chia đường đánh chiếm huyện
Lôi Dương (Thanh Hoá). Đất nhà Mạc bắt đầu bị chia cắt.
Mạc Thái Tông là người chú trọng việc khoa cử. Ông mở các
khoa thi đều đặn 3 năm một lần và chọn được nhiều nhân tài, điển hình là Nguyễn
Thiến (đỗ đầu khoa thi năm 1532) và Nguyễn Bỉnh Khiêm (đỗ đầu năm 1535), Giáp Hải
(đỗ đầu năm 1538). Đầu năm 1536, ông sai Khiêm quận công Mạc Đình Khoa tu sửa lại
trường Quốc Tử Giám.
Khi mới lên ngôi, Thái Tông thấy trong nước nhiều trộm cướp
bèn ra lệnh cấm dân các xứ không được mang gươm giáo, dao nhọn và binh khí đi
ngoài đường. Ai trái lệnh sẽ bị trị tội. Từ đó những người buôn bán chỉ đi tay
không, không phải mang khí giới tự vệ. Do đó, theo sách Đại Việt thông sử của
Lê Quý Đôn, "trong vài năm trộm cướp biệt tăm, súc vật nuôi tối đến không
phải dồn vào chuồng, cứ mỗi tháng một lần kiểm điểm lại".
Liên tiếp trong mấy năm được mùa, nhân dân được no đủ, trong
nước được yên ổn. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi nhận thời thịnh trị của Mạc
Thái Tông: "Đêm ngủ không cần đóng cửa, ngoài đường không nhặt của
rơi".
Thời Mạc Thái Tông, nhà Minh mấy lần mang quân áp sát biên giới,
mượn cớ giúp nhà Lê để đánh Đại Việt. Mạc Thái Tông một mặt tăng cường phòng bị,
tập luyện quân đội, mặt khác sai Nguyễn Văn Thái sang Quảng Tây dâng biểu
"xin hàng", biện hộ rằng Lê Duy Ninh là con của Nguyễn Kim được dựng
lên, không phải dòng dõi nhà Hậu Lê. Nhà Minh muốn để cho hai phe đánh nhau nên
án binh không tiến nữa.
Ngày 25 tháng giêng âm lịch năm 1540, thụy hiệu là Thái Tông
Khâm triết Văn hoàng đế. Thượng hoàng Mạc Đăng Dung lập con trai ông là Mạc
Phúc Hải lên ngôi, tức là vua Mạc Hiến Tông.
Mạc Thái Tông có 7 người con trai là:
Mạc Phúc Hải, tức là vua Mạc Hiến Tông
Mạc Phúc Tư, được phong làm Ninh vương
Mạc Kính Điển, được phong làm Khiêm vương, sau trở thành phụ
chính trụ cột của 2 đời vua nhà Mạc.
Mạc Lý Tường (có sách chép là Lý Thiền)
Mạc Lý Hoà
Mạc Hiệp Cung (có sách chép là Hiệp Thái)
Mạc Đôn Nhượng, được phong làm Ứng vương, sau kế tục Kính Điển
làm phụ chính thời Mạc Mậu Hợp.
Mạc Thái Tông không phải là vị hoàng đế nhiều võ công nhưng
giỏi về văn trị. Ông không có được những chiến công đánh dẹp hiển hách như vua
cha Mạc Thái Tổ nhưng đã mang lại cuộc sống no ấm, yên ổn cho nhân dân Đại Việt,
nhất là vùng Bắc Bộ sau nhiều năm loạn lạc, binh lửa cuối thời Lê sơ. Do sự trỗi
dậy của các lực lượng ủng hộ nhà Hậu Lê, nền thái bình mà ông gây dựng không được
kéo dài. Tuy nhiên, các lực lượng chống Mạc lúc đó chưa đủ mạnh, về cơ bản Mạc
Thái Tông vẫn nắm quyền cai trị toàn quốc.
Những cảnh thịnh trị thời ông cai trị - khiến các sử sách của
nhà Lê đối địch sau này cũng phải ghi nhận - là rất hiếm có trong lịch sử Việt
Nam, ngay cả thời được coi là "hoàng kim" của chế độ phong kiến như
Lê Thánh Tông cũng không thấy chép những cảnh tương tự. Điều đó được các nhà sử
học hiện đại đánh giá rất cao.