Không biết bao nhiêu lần, khi đất nước trong dịp kỷ niệm
những ngày lễ lớn, nhất là mỗi khi bài Tiến quân ca vang lên, tôi thoáng
nhìn thấy gương mặt cha tôi - nhạc sĩ Văn Cao, niềm vui bỗng hiện lên
trong ánh mắt ông. Và trong giây lát, ánh mắt ấy lại lặng buồn với những
trào dâng trong ông về năm tháng ra đời của bài ca này.
Nếu không có Vũ Quý...
Rồi không chỉ một lần, sau những phút tĩnh lặng, với những năm tháng
đang trở lại. Ông khẽ khàng tâm sự với ly rượu nhỏ, giọng ông như nghẹn
lại. Ông nói là ông không khỏi nghĩ đến người bạn, người anh và cũng là
người lãnh đạo đầu tiên, trực tiếp giác ngộ ông vào Việt Minh hồi năm
1944 tại Hà Nội. Người đó đã không giao bất kỳ khẩu súng nào cho ông
hoạt động, lại chính thức giao nhiệm vụ cho ông sáng tác ngay một bài
hát để hát trong ngày ra đời sắp tới của một đội quân vũ trang khoá quân
chính kháng Nhật trên chiến khu Trần Hưng Đạo tại Việt Bắc.
Nhiệm vụ đầu tiên này được giao thật thích hợp với năng khiếu sáng
tác nghệ thuật đã bộc lộ từ năm tháng ông còn ở tuổi thiếu niên. Người
giao nhiệm vụ đó, chính là Vũ Quý (còn gọi là Quý "đen") - một huấn
luyện viên bơi lội, xưa đã từng huấn luyện ông trong hoạt động thể thao
tại Hải Phòng, lúc đó anh đang là lãnh đạo (cùng với các đồng chí Lê
Quang Đạo, Nguyễn Văn Trân...) trong Ban cán sự thành phố Hà Nội (nay là
Thành ủy Hà Nội). Hải Phòng ngày ấy là nơi ông được sinh ra và lớn lên
cùng với lứa thanh, thiếu niên trường Bô-nan (nay là trường Ngô Quyền)
và cùng dần theo cách mạng sau này.
Ông nhận lời Vũ Quý và ngay hôm đó chính thức gia nhập Việt Minh, bắt
tay vào việc sáng tác ngay một bài hát với thể loại hành khúc của một
đội quân, khác với những ca khúc trữ tình ông thường quen sáng tác mỗi
khi có xúc cảm trong tâm hồn. Đó là một ngày của tháng 9 năm 1944.
Và như ông từng bồi hồi viết lại trong hồi ký Tại sao tôi viết Tiến quân ca:
“Bài hát đã làm trong thời gian không biết bao nhiêu ngày tại căn gác
hẹp 45 Nguyễn Thượng Hiền, bên một cái cửa sổ nhìn sang căn nhà 2 tầng,
mấy làn cây và một màn trời xám. Ở đây thường vọng lên những chiếc xe
bò chở xác người chết đói về phía Khâm Thiên. Ởã đây hàng đêm mất ngủ vì
gió mùa luồn vào khe sàn gác hở. Ở đây tôi hiểu thêm nhiều chuyện đời. Ở
đây đêm đêm có những tiếng gõ cửa, những tiếng gọi đêm không người đáp
lại...”.
Rồi với tâm trạng: “...Tin từ Nam Định lên, cho biết mẹ tôi và các em
tôi đang đói. Họ đang tìm mọi cách để sống qua ngày, như mọi người đang
chờ đợi một cái chết thật chậm, tự ăn mình như ngọn nến. Tiếng kêu cứu
của mẹ tôi, các em, các cháu tôi vọng cả căn gác, cả giấc ngủ chiều hôm.
Tất cả đang chờ đợi tôi tìm cách giúp đỡ. Tôi chưa được cầm một khẩu
súng, chưa được gia nhập đội vũ trang nào. Tôi chỉ đang làm một bài hát.
Tôi chưa được biết chiến khu, chỉ biết những con đường phố Ga, đường
Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen tôi đi. Tôi chưa được gặp các
chiến sĩ cách mạng của chúng ta, trong khoá quân chính đầu tiên ấy, và
biết họ hát như thế nào. Ở đây đang nghĩ cách viết một bài hát thật giản
dị cho họ có thể hát được”.
Cứ miên man như thế, một giai điệu trong ông bỗng dâng trào và hoà quyện cùng lời ca như bật ra:
Đoàn quân Việt Minh đi (sau này đổi là Đoàn quân Việt Nam đi).
Chung lòng cứu quốc
Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa...
Và ngọn cờ đỏ sao vàng bay giữa màu xanh của núi rừng. Nhịp điệu ngân dài của bài hát, mở đầu cho một tiếng cồng vang vọng.
Đoàn quân Việt Minh đi
Sao vàng phấp phới
Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than...
Và để kết thúc cùng với tiếng thét ở đoạn cao trào, mang dấu ấn từ
Thăng Long hành khúc ca, một bài ca yêu nước ông đã từng sáng tác trước
đó, ông tiếp tục:
Tiến lên! Cùng tiến lên!
Chí trai là nơi đây ước nguyền!
Đến đây, ông như còn nhớ rõ:
“Tôi đang sống ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Có nhiều mây và hy vọng”. Ông viết tiếp”
“Và bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười hài lòng của đồng chí Vũ
Quý. Da mắt anh đen xạm. Đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh”. Đó là vào
một ngày của cuối tháng 10 năm 1944. Lúc này, việc nhận nhiệm vụ từ chỉ
thị của Trung ương giao, Vũ Quý và ông đã hoàn thành. Và đến ngày ra
đời trên chiến khu, Đội quân vũ trang khoá quân chính đã có bài ca xuất
trận.
Thật đột ngột cho ông, Vũ Quý đã mất trước ngày tổng khởi nghĩa
19-8-1945 - cái chết mà sau này ông được biết là chưa được làm rõ, khi
trên đường anh lên dự Quốc dân đại hội Tân Trào tại Việt Bắc. Cho mãi
đến năm 1972, Vũ Quý mới thật sự được Đảng và Nhà nước truy tặng tấm
bằng liệt sĩ trao cho gia đình. Vào ngày vinh dự sau bao năm mong mỏi
này, ông được bà Thuận (vợ Vũ Quý) và anh Bắc Sơn (con trai Vũ Quý, hiện
nay đang công tác tại Văn phòng Chủ tịch nước) mời đến gia đình dự lễ
đón nhận Bằng tổ quốc ghi công của liệt sĩ Vũ Quý. Lúc đó, ông thật sự
mới nguôi đi nỗi trăn trở, day dứt về người bạn, người cán bộ Việt Minh
mẫu mực đã sớm giác ngộ, dẫn dắt ông, chỉ đạo đội danh dự do ông phụ
trách làm nhiệm vụ tiễu trừ Việt gian, tích cực đóng góp cho cách mạng
trong những ngày chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Vũ Quý đã không hề biết rằng Tiến quân ca được Bác Hồ chọn là Quốc ca
của Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam (như chính phủ lâm thời) tại
Quốc dân đại hội Tân Trào cùng với việc chính thức phát lệnh Tổng khởi
nghĩa toàn quốc ngày 16-8-1945. Và đến Quốc hội khoá I năm 1946, Tiến
quân ca đã chính thức trở thành Quốc ca của nước Việt Nam cho đến ngày
hôm nay.
Một vài tiếc nuối về giai điệu và lời ca...
Với những tiếc nuối về Vũ Quý, không chỉ một lần kể với tôi và trong
gia đình, ông còn nói điều này với những bạn bè thường nhật, thân quen,
chỉ cốt lui tới như Nguyễn Tuân, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên, Nguyễn
Sáng, Thái Bá Vân, Phạm Ngọc, Sơn Tùng, Dương Tường..., ông đã tâm tình
cả về một vài tiếc nuối nhỏ về giai điệu và lời ca của bài Tiến quân ca.
Là con trai thứ hai của ông, khi lớn dần, tôi hay được phục vụ ông
tiếp bạn bè hàng ngày về chè, rượu, nước, thuốc và lặt vặt bên ông.
Những buổi đó, tôi đã nhập tâm về một vài điều ông tiếc nuối thật nhỏ
nhoi này.
Giọng ông như trầm hẳn khi nói: “Tiến quân ca sáng tác xong, ít lâu
sau tôi cảm thấy: do muốn mở đầu cho một tiếng cồng vang vọng, nốt nhạc
ngay đầu đã phải ngân dài, điều này có gì đó khiến tôi áy náy. Sau này,
tôi đã cảm ơn ông Đinh Ngọc Liên về việc đã sửa lại chỗ này tại đàn kèn
cử nhạc lễ của quân đội, ngay vào ngày là Quốc ca chính thức được cử lên
trang nghiêm để chào cờ, không chỉ là hát hành khúc nữa. Kỳ lạ thay,
Quốc ca kết thúc lại vừa vặn loạt đạn bắn lên với 21 phát đại bác…
Về nốt nhạc đầu tiên này, ông Đinh Ngọc Liên cho dàn nhạc cử nốt nhạc
này không ngân dài nữa, mà vào ngay với nốt nhạc liền sau đó. Tức là,
nếu như cũ, lời ca là: Đoàn... quân Việt Minh đi. Chữ “Đoàn” phải hát
kéo dài hơn. Còn khi đã sửa, phải là: Đoàn quân Việt Minh đi. Do đó, các
bản nhạc in sau này đã sửa hẳn như vậy, đến nay cứ nghe là thấy rất ổn
định. Tôi vẫn thầm cảm ơn ông Đinh Ngọc Liên về cái nốt nhạc này”. Ông
tiếp tục nói:
“Còn về lời ca, có người bảo tôi là tại sao có đoạn lại viết: Thề
phanh thây uống máu quân thù. Tôi lặng người, sau đó trả lời: “Hoàn cảnh
lúc đó, nếu không có 2 triệu người chết đói dần mà tôi đã từng chứng
kiến khi bắt đầu sáng tác ca khúc này, tôi sẽ không viết như vậy. Tác
dụng thiết thực của lời ở đoạn này lịch sử đã ghi nhận. Ngày hoà bình
lập lại năm 1954, gia đình tôi đã từ Việt Bắc trở về Hà Nội sinh sống.
Sau đó một vài năm, được Quốc hội mời vào Ban sửa lời Tiến quân ca, tôi
đã thống nhất để sửa lại là: Vì nhân dân chiến đấu không ngừng!”. Và ông
lại nói tiếp:
“Một điều nữa, tiếc nuối là lời đoạn cuối cùng, tôi có sửa là: Núi
sông Việt Nam ta vững bền (nguyên lời cũ là: Chí trai là nơi đây ước
nguyền hoặc Bắc Sơn cùng Đô Lương, Thái Nguyên). Không biết ai đó chắp
bút cuối cùng đã đổi thành: Nước non Việt Nam ta vững bền! Với một ca
khúc đòi hỏi trang nghiêm, chữ nước non hát lên bị yếu. Chữ núi sông hát
khoẻ và hùng tráng. Rồi ở lời 2, đoạn tôi đã sửa là: Cùng chung sức
kiến thiết xây đời mới. Chữ kiến thiết hát khoẻ và khí thế biết bao
nhiêu”. Ông chặc lưỡi: “Thôi, giờ tôi có tiếc nuối cũng chẳng thể làm
gì. Dù sao Tiến quân ca cũng chẳng phải là của riêng tôi, nó đã là của
một dân tộc Việt Nam độc lập kể từ Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945
đến nay”.
Ông đã đi vào cõi vĩnh hằng, vẫn để lại bao trăn trở, đau đầu những
nổi niềm, khát vọng, cùng sự hoàn chỉnh trong từng tác phẩm ca khúc trữ
tình, yêu nước và cách mạng trong lòng bao người. Từng tác phẩm này của
ông xưa đã trải nhiều thăng trầm, gắn bó với lịch sử cách mạng của đất
nước, và đã được bao thế hệ nuôi dưỡng, ấp ủ. Cho đến nay, những tác
phẩm của ông vẫn thật sống động, vọng vang những năm tháng cách mạng
cùng lịch sử hào hùng của dân tộc.
Với nỗi nhớ thương ông, tôi ghi chép thành bài này, ghi nhận lại một
vài tâm sự của ông khi còn sống, đã kể về tác phẩm Tiến quân ca lúc ra
đời, cùng với sự tiếp tục sau này, khi ông hoàn chỉnh về giai điệu và
lời ca.
Tôi bùi ngùi như thấy ông trước mắt. Mái tóc ông thân thương. Như xanh bay theo từng nốt nhạc và lời ca rung vang:
“Đoàn quân Việt Minh đi...”.
(Nghiêm Bằng, An ninh Hải Phòng)