Xây dựng Hải Phòng trở thành trung tâm kinh tế mạnh làm đầu tàu lôi kéo kinh tế vùng phát triển
Xây
dựng Hải Phòng trở thành trung tâm kinh tế mạnh làm đầu tàu lôi kéo kinh tế
vùng phát triển
Hải
Phòng là thành phố cảng biển, cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc,
cực tăng trưởng vùng kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ, đầu mối giao thông quan trọng về đường bộ, đường sắt, đường hàng không và đường biển quan
trọng của cả nước và quốc tế, gắn kết Hải Phòng với các tỉnh,
thành phố trong cả nước và quốc
tế. Lợi thế so sánh đã tạo cho Hải Phòng phát triển kinh tế
biển, chủ yếu là ngành cảng -hàng hải, du lịch biển, thủy sản, dầu khí và các
dịch vụ kinh tế biển...
Phát huy vai trò là hạt
nhân trong vùng kinh tế.
Với tiềm năng lợi thế và
vai trò cầu nối quan trọng, thành phố Hải Phòng có điều kiện rất thuận lợi để
giao lưu liên kết, hội nhập và hợp tác kinh tế với thế giới bên ngoài, đặc biệt
là với các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương (khu vực có nền kinh tế
năng động và có một số trung tâm kinh tế lớn của thế giới); trong hợp tác hai
hành lang, một vành đai kinh tế Việt Nam - Trung Quốc, đồng thời là cực tăng
trưởng quan trọng trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và vị trí hỗ trợ đắc lực
cho Thủ đô Hà Nội.
Thực hiện Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIII, trong giai đoạn 2006 - 2010, kinh tế thành
phố đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt
tốc độ tăng trưởng khá cao trong giai đoạn 2006- 2008 (bình quân tăng
12,76%/năm); từ năm 2009 đến năm 2010, tốc độ tăng trưởng chậm hơn do ảnh hưởng
của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, bình quân trong 5 năm
đạt 11,15%; tuy không đạt mục tiêu Đại hội đề ra (12-13%/năm), song vẫn gấp 1,5
lần mức tăng bình quân chung của cả nước. Nhiều chỉ tiêu đạt cao, về trước kế
hoạch từ 1 đến 3 năm, như sản lượng hàng hoá thông qua cảng, thu ngân sách trên
địa bàn, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Quy mô kinh tế tăng đáng kể,
GDP năm 2010 gấp 1,7 lần so với năm 2005, GDP bình quân đầu người tăng 63,4%
(năm 2010 đạt 1.742USD/người); tỷ trọng GDP trong GDP cả nước chiếm khoảng 4,3%
(năm 2005 là 3,6%). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng
GDP của các nhóm ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng từ 87% năm 2005
lên 90% năm 2010 (trong đó dịch vụ tăng từ 50,8% lên 53%). Một số ngành, lĩnh
vực kinh tế chủ lực, nhiều lợi thế phát triển nhanh, có thêm sản phẩm mới.
Công nghiệp tiếp tục giữ
vai trò chủ lực, chiếm 31% trong GDP của thành phố, góp phần quan trọng hàng
đầu vào tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu, thu hút lao động; tạo điều kiện thúc
đẩy phát triển dịch vụ, đô thị, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Các sản phẩm mũi nhọn, quan trọng được tập trung đầu tư phát triển, làm nền
tảng cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá như: cơ khí, phôi thép, thép tấm, xi
măng, nhiệt điện, phân bón DAP, sơ sợi tổng hợp… Đã từng bước hình thành trung tâm công nghiệp đóng tầu,
sản xuất kim loại, vật liệu xây dựng lớn của vùng và cả nước. Một số ngành kỹ thuật cao
được hình thành như sản xuất máy móc thiết bị điện, điện tử; dụng cụ y tế, dụng
cụ chính xác; thiết bị văn phòng và máy tính...Công tác quy hoạch và xây dựng
hạ tầng kỹ thuật các khu kinh tế, khu, cụm công nghiệp có chuyển biến căn bản, trở
thành phương thức chủ yếu để tổ chức không gian phát triển công
nghiệp một cách bền vững.
Kinh tế nông nghiệp
chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và bảo đảm an ninh lương
thực. Tỷ trọng giá trị sản xuất chăn nuôi chiếm 40-42% giá trị của toàn ngành
nông nghiệp (năm 2005 chiếm gần 35%). Phát triển khá nhanh các mô hình trang
trại và vùng sản xuất tập trung chuyên canh; đồng thời quan tâm đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ cao, góp phần nâng cao năng suất, giá trị và hiệu quả trong sản
xuất nông nghiệp (giá trị sản xuất nông nghiệp trên đất canh tác đạt
bình quân 75 triệu đồng/ha/năm, nhiều diện tích đạt trên 100 triệu
đồng/ha/năm). Từng bước thực hiện có hiệu quả mô hình liên kết Nhà nước, nhà
khoa học, doanh nghiệp và nông dân. Cơ sở vật chất kỹ thuật
phục vụ cho nuôi trồng thủy sản được đầu tư, nâng cấp, tu bổ. Đẩy mạnh nuôi thâm canh, bán thâm canh, phát triển nuôi
trên biển, nuôi nước ngọt, khuyến khích khai thác
đánh bắt hải sản xa bờ; phát triển nhanh đội tàu với kỹ thuật, thiết bị được
đầu tư mới, đủ năng lực vươn khơi và mang lại hiệu quả.
Kinh tế dịch vụ phát
triển đa dạng, đúng định hướng, chất lượng và hiệu quả được nâng lên, tạo sức
tác động lan tỏa bước đầu đối với vùng, miền và vươn ra quốc tế, khẳng định vai
trò quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội; góp phần tích cực, trực tiếp
vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố, từng bước trở thành một
trong các trung tâm dịch vụ lớn của vùng Duyên hải Bắc bộ. GDP ngành dịch vụ
chiếm tỷ trọng cao và đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng GDP của thành
phố. Đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng dịch vụ theo hướng hiện đại, nhất là hạ tầng
cảng, thương mại, viễn thông, công nghệ thông tin, vận tải, du lịch. Thương mại
phát triển khá toàn diện; tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ tăng 23,7%/năm.
Quan tâm đầu tư thêm nhiều trung tâm thương mại, siêu thị hiện đại, đáp ứng yêu
cầu để Hải Phòng giữ vai trò trung tâm phát luồng hàng hoá của vùng và cả nước.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2010 xấp xỉ 2 tỷ USD, tăng bình quân 18,76%/năm, đạt kế hoạch. Số doanh
nghiệp tham gia xuất khẩu tăng nhanh; cơ cấu sản phẩm xuất khẩu có chuyển biến
tích cực; sản phẩm công nghiệp chế biến tăng khá. Du lịch phát triển trên nhiều
lĩnh vực, thu hút khoảng 4,2 triệu lượt khách vào năm 2010 . Nhiều cơ sở hạ
tầng du lịch được đầu tư mới, số lượng khách sạn, nhà hàng mới tăng nhanh, tôn
tạo nhiều công trình văn hoá lịch sử. Chú trọng khai thác lợi thế về du lịch
biển. Đảo Cát Bà và Đồ Sơn được tập trung đầu tư cùng với khu du lịch vịnh Hạ
Long trở thành một trong những trung tâm du lịch quốc tế của cả nước. Bưu
chính, viễn thông phát triển mạnh, số doanh nghiệp tăng hơn 2 lần so với năm
2005; thuê bao điện thoại và internet tăng nhanh; mạng viễn thông đã phủ khắp
thành phố, kể cả huyện đảo Bạch Long Vỹ.
Cơ sở hạ tầng và các
dịch vụ ứng dụng công nghệ thông tin phát triển khá nhanh, góp phần nâng cao
chất lượng hoạt động của bộ máy hành chính và doanh nghiệp. Các dịch vụ mới như
kinh doanh bất động sản, tư vấn, bảo hiểm, cho thuê tài chính, ngân hàng, chứng
khoán... phát triển khá. Hoạt động dịch vụ trong
các lĩnh vực giáo dục-đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, công ích, tư
vấn… được đẩy mạnh, mở rộng theo hướng xã hội hoá và đạt được kết quả tích cực.
Dịch vụ tư vấn đầu tư sản xuất- kinh
doanh, kiểm toán, kế toán, tư vấn tài chính, pháp lý, xây dựng và quản lý đô
thị phát triển đa dạng, theo hướng chuyên nghiệp, từng bước đồng bộ, chất lượng
được nâng lên. Các dịch vụ khuyến nông, khuyến ngư có nhiều tiến bộ, hỗ trợ tốt
cho ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và khoa học-công nghệ.
Huy động nguồn lực đạt kết quả tích cực, phát
huy được lợi thế của thành phố cho đầu tư phát triển tăng nhanh. Thu hút vốn
đầu tư toàn xã hội theo hướng đẩy mạnh xã
hội hoá,
tăng 30,1% so với mục tiêu Đại hội và gấp
2,5 lần giai đoạn 2001-2005; nguồn vốn chủ yếu từ nội lực (chiếm khoảng 85%);
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh. Ưu tiên khuyến khích dự án có quy
mô lớn, công nghệ cao, thân thiện môi trường, có giá trị gia tăng cao; kiên
quyết loại bỏ dự án có công nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi trường.
Kinh tế biển, khai thác
khá toàn diện lợi thế biển và cảng biển; các ngành kinh tế biển truyền thống tiếp
tục được đầu tư, nâng cao năng lực, có tốc độ phát triển nhanh, cải thiện sức
cạnh tranh; vai trò là một trong những trọng điểm kinh tế biển của cả nước được
khẳng định rõ hơn. Quy hoạch phát triển kinh tế biển Hải Phòng đến năm 2020
được xây dựng, triển khai phù hợp với quy hoạch chung của cả nước và của vùng.
Xây dựng quy hoạch chung Khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải đến năm 2025 theo hướng
là một trung tâm kinh tế biển đa ngành, đa lĩnh vực của vùng Duyên hải Bắc bộ
và cả nước. Hệ thống cảng biển được đầu tư nâng cấp, đồng thời đầu tư xây dựng
thêm một số cảng chuyên dùng khác như cảng PTSC Đình Vũ, cảng xăng dầu VIPCO,
thực hiện tốt vai trò cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc, góp phần đẩy
mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, tạo đà tăng trưởng kinh tế của cả nước nói chung
và các tỉnh phía Bắc nói riêng. Hoạt động dịch vụ cảng
biển phát triển khá mạnh. Sản lượng hàng hoá thông qua các cảng trên địa bàn
tăng nhanh, đạt trước 2 năm so với mục tiêu Đại hội đề ra. Dịch vụ kho bãi phát
triển mạnh, đa dạng; năng lực vận tải (đường bộ, đường biển) được nâng lên; vận
tải biển tiếp tục củng cố vai trò là một trung tâm của cả nước. Tỷ trọng cung
cấp các dịch vụ hàng hải so với nhu cầu phục vụ (khối lượng hàng hóa và lượng
tàu đến cảng) tương đối cao so với các địa phương khác trong cả nước.
Những giải pháp cơ bản để
Hải Phòng tiếp tục phát triển xứng đáng vai trò cực tăng trưởng vùng kinh tế
trọng điểm phí Bắc.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
thành phố lần thứ XIV đã xác định mục tiêu phát triển của thành phố đến năm 2015,
đó là: “Phát huy toàn diện, đồng
bộ tiềm năng, lợi thế của thành phố cảng, tập trung cao mọi nguồn lực đẩy mạnh
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tạo bước phát
triển đột phá, để đến năm 2015 Hải Phòng cơ bản trở thành thành phố công nghiệp
và dịch vụ cảng theo hướng văn minh, hiện đại; có kinh tế phát triển nhanh, bền
vững; đô thị phát triển xứng tầm là đô thị loại I-đô thị trung tâm cấp quốc
gia; phát triển văn hóa thật sự là nền tảng tinh thần của xã hội; quốc phòng-an
ninh được tăng cường và củng cố vững chắc; năng lực lãnh đạo, bản lĩnh chính
trị, sức chiến đấu của toàn Đảng bộ và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cả hệ
thống chính trị tiếp tục được nâng cao; đảm bảo tiến bộ, công bằng, an sinh xã
hội; tiếp tục cải thiện và nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân”.
Để thực hiện được vai trò
đối với vùng và mục tiêu phát triển của thành phố, trong thời gian tới thành
phố sẽ tập trung triển khai các giải pháp sau:
Một
là, những nhiệm vụ, giải pháp mang tính đột phá:
a) Đổi mới cách thức
tăng trưởng theo hướng hài hòa giữa tăng trưởng theo chiều rộng và chiều sâu;
nâng cao chất
lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ,
đảm bảo đến năm 2015 công nghiệp, dịch vụ chiếm 94% GDP. Tái cấu trúc tất cả
các ngành kinh tế: công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, trọng tâm là ưu tiên
phát triển các ngành có thế mạnh và tạo ra giá trị gia tăng lớn, bước đầu tham
gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước, đồng
thời phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư
theo hướng phục vụ nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Xây dựng chiến lược
xuất khẩu trên cơ sở phát huy tối đa các lợi thế, năng lực của các ngành sản
xuất chủ lực, các hoạt động xúc tiến và mở rộng thị trường xuất khẩu.
b) Tập trung xây dựng, tạo sự phát triển đột phá về kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng cảng biển, giao thông: Đẩy
nhanh quá trình thực hiện các công trình đầu mối trên địa bàn thành phố như:
Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng tại Lạch Huyện, đường cao tốc Hà Nội - Hải
Phòng; đường cao tốc ven biển, cảng hàng không Cát Bi,
các tuyến đường sắt nối với cảng biển, cảng bốc dỡ nội địa; Khẩn trương xây
dựng và triển khai các dự án giao thông, hạ tầng quan trọng như: cầu Bính 2 qua
sông Cấm, cầu Niệm 2... Đẩy nhanh tiến độ các dự án công trình hạ tầng giao
thông: cầu Rào 2, đường vành đai 3, tuyến đường trục 100m, đường Tân Vũ – Lạch
Huyện và một số trục đường Bắc - Nam, dự án phát triển giao thông đô thị Hải
Phòng; cải tạo các nút giao giữa đường sắt và các tuyến đường
trong đô thị Hải Phòng trên đoạn từ cầu quay đến ngã 6, nghiên cứu xây dựng một
số cửa ô vào thành phố để giảm ùn tắc giao thông đô thị.
c) Ưu tiên tập trung phát triển nguồn nhân lực,
đặc biệt là nhân lực chất lượng cao: Tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết số
04/2008/NQ-HĐND ngày 22/4/2008 của Hội đồng nhân dân thành phố về một số chủ
trương, giải pháp chủ yếu phát triển nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu
hội nhập công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành phố đến năm 2010, định hướng 2020,
Đề án đào tạo tiến sỹ, thạc sỹ ở nước ngoài giai đoạn 2008 - 2015, Đề
án đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Có cơ
chế, chính sách ưu tiên, tập trung phát triển, đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, cán bộ khoa học và
công nghệ đầu đàn có trình độ chuyên môn cao, có tính chuyên nghiệp, có năng
lực và phẩm chất đạo đức tốt; đội ngũ
doanh nhân và lao động có tay nghề cao cho các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội
trọng tâm của thành phố. Chú trọng đào tạo nghề cho nông dân, đặc biệt là ở các
vùng đô thị hóa; triển khai đào tạo nghề theo nhu cầu phát triển của xã hội.
d) Tăng cường cải cách hành chính, thực hiện dân chủ ở cơ
sở; phòng chống tham nhũng lãng phí: Sắp
xếp, tinh giảm bộ máy, thực hiện cải cách hành
chính sâu rộng và đồng bộ, đảm bảo tính thông suốt, toàn diện, hiệu lực, hiệu
quả và tính chuyên nghiệp, trách nhiệm của hệ thống các cơ quan hành chính,
quản lý Nhà nước; trọng tâm là tạo sự chuyển biến thật sự có chiều sâu, hiệu
quả vững chắc công tác cải cách thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho các tổ
chức, công dân, tích cực góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh.
Hai
là, một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm:
a) Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh, phát
triển bền vững
Phát triển công nghiệp theo hướng nâng cao trình độ công nghệ, chế tác, chất
lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh, thân thiện môi trường. Điều chỉnh cơ cấu
ngành công nghiệp một cách đồng bộ, cả về sản phẩm, thị trường và nguồn lực đầu
tư theo hướng phát triển mạnh các ngành, sản phẩm có lợi thế, sản phẩm xuất
khẩu, tăng tỷ lệ nội địa hoá, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, có giá trị gia
tăng cao và khả năng đóng góp lớn vào GDP của thành phố. Tập trung phát triển
các ngành, sản phẩm công nghiệp chủ lực. Chú trọng phát triển công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng trong nước, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp phục vụ nông
nghiệp, nông thôn, gắn với vùng nguyên liệu và thị trường nông thôn. Đẩy mạnh
việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu kinh tế, các khu, cụm công nghiệp, khu công
nghệ cao theo quy hoạch.
Phát triển nông nghiệp,
thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá phục vụ đô thị và xuất khẩu: Phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá; sản xuất hàng hoá với năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh
tranh cao. Điều chỉnh cơ cấu ngành nông nghiệp, gắn sản xuất với chế biến và
thị trường. Tập trung xây dựng các khu nông nghiệp sinh thái và công nghệ cao;
đổi mới công nghệ sau thu hoạch. Phát triển các lĩnh vực nhiều lợi thế để Hải
Phòng thực sự trở thành trung tâm sản xuất giống, thức ăn, khoa học công nghệ,
chế biến, xuất khẩu thuỷ sản và dịch vụ hậu cần nghề cá của vùng duyên hải Bắc
bộ. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn theo
hướng đồng bộ.
Tập trung phát triển
mạnh kinh tế dịch vụ: Tập trung nguồn lực phát
triển các ngành dịch vụ chủ lực, có lợi thế và tầm ảnh hưởng cao trong nước như
vận tải biển, du lịch, thương mại, tài chính, ngân hàng, giáo dục, y tế... đẩy
mạnh thực hiện Nghị quyết số 01/2009/NQ-HĐND về phát triển kinh tế biển thành
phố đến 2015 định hướng đến 2020; Phát triển mạnh kinh tế biển, thực hiện vai
trò là trọng điểm về phát triển kinh tế biển, đóng góp cao
vào tăng trưởng kinh tế; tăng lượng lao động và dân cư hoạt động và sinh sống nhờ
các hoạt động kinh tế biển.
Tập trung huy động các
nguồn lực, đẩy mạnh xã hội hóa thu hút vốn đầu tư phát triển hạ tầng du lịch
theo hướng hiện đại, đồng bộ, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm du
lịch. Nâng cấp, hiện đại hóa khu du lịch nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí Đồ Sơn,
Cát Bà khai thác có hiệu quả tổ hợp du lịch sông Giá; hình thành sàn giao dịch hàng hoá xuất nhập khẩu, phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền
vững. Từng bước chủ động về nhập khẩu, tăng tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm thay thế
nhập khẩu. Tăng cường công tác giám sát, quản lý trong lưu thông,
phân phối, kiểm tra chất lượng hàng hoá. Phát
triển mạnh và nâng cao chất lượng các dịch vụ bưu chính, viễn thông, tư vấn,
nghiên cứu và chuyển giao khoa học - công nghệ và một số loại hình dịch vụ
trong giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
Đẩy mạnh công tác tài chính, ngân hàng: Thực
hiện chính sách huy động các nguồn lực tài chính hợp lý, bảo đảm nguồn lực thực
hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, sử dụng vốn ngân sách đúng mục
tiêu, tiết kiệm, đạt hiệu quả cao. Đẩy mạnh các khoản thu từ các khu vực sản
xuất kinh doanh, chống thất thu, thất thoát, đặc biệt là thu từ khu vực ngoài
quốc doanh; chú ý nguồn thu từ đấu giá quyền sử dụng đất. Chi ngân sách đảm bảo tiết kiệm, thiết thực, đáp ứng được
các nhu cầu chi thường xuyên, đột xuất của thành phố, đồng thời tăng tỷ lệ chi
cho đầu tư phát triển.
Phát triển nhanh kinh tế đối ngoại gắn với tăng cường các
hoạt động đối ngoại; tích cực, chủ động hội
nhập quốc tế đạt hiệu quả cao: Mở rộng, phát triển các hoạt
động đối ngoại; chủ động, tích cực tham gia, thúc đẩy quá trình xây dựng các
tuyến hành lang kinh tế Việt Nam - Trung Quốc. Đẩy mạnh hợp tác với các địa
phương trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng
đồng bằng sông Hồng và với các địa phương trong cả nước, trên cơ sở đẩy mạnh
hợp tác trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh; trước
hết là với Thủ đô Hà Nội và tỉnh Quảng Ninh.
Phát triển các thành
phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp: Tiếp tục cải thiện mạnh môi trường đầu tư kinh doanh,
phát triển đồng bộ các loại thị trường. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ chế,
chính sách của thành phố trong cụ thể hóa thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa; nâng cao vai trò quản lý nhà nước các hoạt động kinh tế. Đẩy
mạnh công tác xúc tiến đầu tư và thương mại, mở rộng thị trường, tăng sức cạnh
tranh các sản phẩm trên cơ sở phát huy nội lực. Tăng cường thu hút vốn đầu tư
nước ngoài gắn với nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, chú trọng thu hút các tập đoàn lớn.
Phát triển khoa học và
công nghệ phục vụ phát triển kinh tế- xã hội nhanh, bền vững: Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng công nghệ cao, công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ tự động hoá. Đạt trình độ công nghệ
trung bình tiên tiến trong khu vực trên một số lĩnh vực chủ yếu. Tăng cường đầu
tư từ ngân sách, đẩy mạnh xã hội hoá, thu hút các nguồn lực đầu tư. Xây dựng và
phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Vận dụng và xây dựng các cơ chế ,
chính sách khuyến khích hoạt động, đẩy mạnh hợp tác trong và ngoài nước về khoa
học và công nghệ.
Khai thác, sử dụng hiệu
quả các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững: Quản lý, khai thác và sử dụng hợp lý, có hiệu quả các
nguồn tài nguyên nhất là tài nguyên đất, tài nguyên biển. Giải quyết một bước cơ bản tình trạng ô nhiễm môi trường
ở các khu công nghiệp, cảng, các khu dân cư đô thị, các khu xử lý chất thải tập
trung. Nâng cao khả năng phòng tránh và hạn chế tác động của thiên tai, chủ
động thực hiện và đáp ứng các yêu cầu về môi trường.
b) Tiếp tục đẩy mạnh
phát triển và quản lý đô thị theo hướng đô thị cảng biển, văn minh, hiện đại
Tập trung cao các nguồn
lực, trong đó ưu tiên dành vốn ngân sách và huy động các nguồn lực khác để đẩy
nhanh xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội thành phố xứng đáng là
đô thị loại I - đô thị trung tâm cấp quốc gia theo hướng đô thị cảng biển, văn
minh, hiện đại. Tạo bước chuyển biến trong công tác quy hoạch; thực hiện việc
thuê tư vấn nước ngoài để lập và thẩm định quy hoạch một số dự án lớn, quan
trọng. Nghiên cứu quy hoạch phát triển Hải Phòng trở thành thành phố sinh thái
– thành phố kinh tế.
Phát triển đô thị nông
thôn gắn với chuyển đổi cơ cấu lao động, kết hợp với đào tạo, phát triển nghề
cùng với chuyển đổi các khu vực làng xóm, dân cư nông nghiệp thành dân cư phi
nông nghiệp. Đẩy mạnh xã hội hóa, tiếp tục thực hiện đồng bộ, có hiệu quả
phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” trong đầu tư xây dựng các lĩnh vực
cấp điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế xã phục vụ phát triển kinh
tế-xã hội nông thôn theo đúng tinh thần Quyết định 800/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ.
(PGS. TS Đan Đức Hiệp – PCT UBND TP Hải Phòng)