Tài nguyên thiên nhiên thành phố Hải Phòng

Tài nguyên đất

Ngày 02/3/2022 Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Quyết định số 387/QĐ-BTNMT phê duyệt và công bố kết quả thống kê diện tích đất đai năm 2020, Theo đó, diện tích tự nhiên của TP. Hải Phòng năm 2020 là 1.526,52 km². Hải Phòng là một địa phương có diện tích khá nhỏ, đứng thứ 6/11 tỉnh/thành phố của vùng ĐBSH và thứ 55/63 của cả nước. Tuy nhiên, Hải Phòng có diện tích đất ngập nước vùng bờ (ĐNNVB) thuộc loại lớn ở nước ta, loại hình phong phú và đa dạng. Tổng quỹ ĐNN vùng bờ Hải Phòng có 64.968,6 ha (Không tính diện tích đảo nhỏ), bằng 42,8% diện tích tự nhiên thành phố. Theo đơn vị hành chính quận, huyện (Không kể huyện đảo Bạch Long Vĩ và quần đảo Long Châu), ĐNN vùng bờ phân bố rộng nhất ở huyện Cát Hải, hẹp nhất là quận Hồng Bàng.

Hải Phòng là một trong những địa phương rất giàu tài nguyên nước, bao gồm cả nước ngọt, nước lợ và nước mặn; cả nước mặt và nước dưới đất.

Theo nguồn gốc phát sinh và động thái phát triển, đất Hải Phòng có thể phân thành hai nhóm. Nhóm đất đồi núi chiếm khoảng 15% diện tích, gồm 7 loại chính: Đất feralit đỏ vàng phát triển trên các đá sa thạch và diệp thạch; đất feralit đỏ vàng phát triển trên các đá phiến thạch sét; đất feralit đỏ vàng phát triển trên đá vôi; đất feralit vàng hoặc vàng nhạt phát triển trên đá vôi silic; đất feralit phát triển yếu trên đá silic vôi; đất feralit xói mòn trơ sỏi đá và đá vôi. Nhóm đất đồng bằng ven biển và thung lũng chiếm khoảng 85% diện tích, gồm 14 loại chính: Đất bãi cát bằng ven biển; đất cát biển; đất rất mặn ngập triều; đất mặn ven biển do ảnh hưởng của nước mạch mặn và mặn tràn; đất ít mặn do ảnh hưởng của nước mạch; đất mặn chua; đất chua mặn; đất phù sa nâu được bồi hàng năm; đất phù sa nâu vàng nhạt không được bồi, không glây hoặc glây yếu; đất phù sa nâu xám nhạt glây trung bình hoặc mạnh; đất phù sa glây mạnh, úng nước thường chua; đất phù sa nâu vàng nhạt có sản phẩm feralit thường chua; đất cát biển có sản phẩm feralit thường chua và đất thung lũng.

Phần lớn đất có thành phần cơ giới là thịt trung bình và thịt nhẹ. Đất có thành phần cơ giới cát pha không nhiều, gặp ở quận An Hải và huyện Thuỷ Nguyên. Đất có thành phần cơ giới cát phổ biến ở Cát Hải, Bàng La và một số điểm tích tụ bãi cát biển cổ hoặc trẻ. Đất có thành phần cơ giới sét phân bố ở cửa sông ven biển. Các loại đất feralit phát triển trên đá vôi ở huyện Thuỷ Nguyên và huyện Cát Bà và rất ít ở quận Kiến An có hàm lượng oxit sắt cao hơn oxit nhôm rất nhiều, nên đất thường có màu đỏ thẫm, đỏ nâu, đỏ vàng và độ phì nhiêu cao hơn các loại đất đồi núi khác và nước ngầm thường có phản ứng kiềm rõ. Các loại đất feralit phát triển trên đá mẹ là trầm tích vụn thô ở huyện Thuỷ Nguyên, quận Kiến An và quận Đồ Sơn có màu ngả vàng, vàng đỏ do các oxit sắt thường ngâm nước, vỏ phong hoá và đất thường lốm đốm nhiều màu sắc, nhiều vết tích của quá trình glây và nước ngầm thường có phản ứng axit yếu. Đất phát triển trên các trầm tích nguồn gốc sông - biển hoặc biển ở đồng bằng tích tụ thấp ven bờ thường có đặc tính chua mặn.

Diện tích đất trồng khá lớn, nhưng đất tốt không nhiều. Đất feralit phát triển trên đá vôi là loại đất tốt nhưng diện tích nhỏ và phân tán, có giá trị trồng cây ăn quả, lấy gỗ và duy trì rừng tự nhiên. Đất feralit phát triển trên các đồi đá trầm tích vụn thô có chất lượng kém, phù hợp phát triển lâm sinh, trồng cây lấy gỗ và ăn quả. Các loại đất đồng bằng không ảnh hưởng mặn, ít mặn trung tính, hoặc chua mặn, chua vừa phải, phù sa không được bồi, hoặc được bồi hàng năm được sử dụng trồng lúa hoặc các loại cây lương thực khác như ngô, khoai, các loại cây công nghiệp ngắn ngày như đỗ, lạc, vừng, thuốc lào, các loại cây ăn quả và và rau màu.

Đất bồi ngập mặn ven biển có diện tích 24.143 ha, với cơ cấu bãi triều cao 1832 ha, đầm lầy sú vẹt 2.325 ha, đầm nuôi thuỷ sản 5.616 ha (Trong các đầm còn 1.120 ha rừng ngập mặn), ruộng muối 652 ha, bãi triều thấp 13.340 ha, bãi cát biển 187 ha và cồn cát 191 ha. Thành phần cơ giới của chúng thay đổi từ đất sét đến đất cát. Đất sét và sét pha phổ biến ở bãi triều cao, đầm lầy sú vẹt và đầm nuôi thuỷ sản. Đất cát pha phổ biến ở các bãi triều thấp, ruộng muối. Đất cát phổ biến ở các cồn cát, bãi cát biển. Đất bồi ven biển nói chung giàu mùn bã hữu cơ, khá giàu dinh dưỡng nitơ và nghèo dinh dưỡng phốt pho. Đặc biệt, ở ven biển phía Đông Bắc Hải Phòng phổ biến tầng đất sinh phèn nằm dưới bề mặt 0-40 cm, thành phần sét, sét pha, màu xám xanh, chứa nhiều mùn bã sú vẹt do bồi tụ trong môi trường đầm lầy ven biển. Tầng đất này chứa nhiều lưu huỳnh, tổng hàm lượng khoảng 1-3%, dưới dạng các khoáng vật sunfua như pyrit và stroilit, trong điều kiện phơi cạn khi khai hoang nông nghiệp hoặc đắp đê đầm nuôi bị oxy hoá gây chua phèn độc hại cho vật nuôi và cây trồng.

Tài nguyên nước

Là một thành phố biển, Hải Phòng là một trong những địa phương rất giàu tài nguyên nước, bao gồm cả nước ngọt, nước lợ và nước mặn; cả nước mặt và nước dưới đất.

Tài nguyên nước mặt

Nằm ở hạ lưu của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, TP. Hải Phòng có nguồn tài nguyên nước mặt dồi dào, gồm 05 hệ thống sông chính: Sông Đá Bạch - Bạch Đằng, Kinh Thầy, Lạch Tray, Văn Úc, Thái Bình với tổng lưu lượng khoảng 77,2 tỷ m³/năm. Cũng do đặc thù này nên chất lượng nguồn nước mặt phụ thuộc rất lớn vào nguồn nước chuyển xuống từ thượng lưu và chế độ thủy triều (Nhật triều) của biển Đông...

Ngoài hệ thống sông chính trên, mạng lưới sông trên địa bàn thành phố còn có các sông Cẩm, sông Kinh Môn, sông Luộc, sông Hóa, sông Mới, sông Tam Bạc, sông Hàn và một số sông nhánh: Sông Rế, hồ sông Giá, sông Đa Độ, kênh Chanh Dương, kênh Hòn Ngọc và hệ thống trung thủy nông Tiên Lãng.

Trên địa bàn TP. Hải Phòng hiện có 08 hồ chứa tập trung tại hai huyện đảo là Cát Hải và Bạch Long Vĩ. Chức năng chính của các hồ này là chứa nước mưa và dự trữ nước ngọt cung cấp nước sinh hoạt cho hai huyện đảo, không có chức năng phòng lũ. Trong đó có 04 hồ chứa nước có dung tích lớn nằm tại huyện Cát Hải gồm hồ chứa nước Trân Châu (298.000 m³), hồ chứa nước Xuân Đám hạ lưu (297.000 m³), hồ chứa nước Phù Long (166.000 m³), hồ chứa nước Xuân Đám thượng lưu (124.800 m³).

Tài nguyên nước dưới đất

Nguồn nước dưới đất có nhiều ở núi Đèo, huyện Thuỷ Nguyên, khu vực Quán Trữ, Kiến An và Cát Bà, chất lượng nước ngầm khá tốt, nhưng không phân bố trên diện rộng. Nguồn tài nguyên nước dưới đất của TP. Hải Phòng tương đối phong phú nhưng do gần biển nên khả năng rất dễ bị nhiễm mặn trong quá trình khai thác.

Tài nguyên nước mặn

Bờ biển Hải Phòng dài 129 km và 1.250 hải lý vuông thềm lục địa, nguồn nước mặn phong phú. Hải Phòng có 3 ngư trường lớn gồm Bạch Long Vĩ, Long Châu và Cát Bà với tổng diện tích khoảng 4.000 km². Nguồn tài nguyên quý giá này là cơ sở để Hải Phòng phát triển kinh tế hàng hải, đánh bắt hải sản và du lịch và sản xuất muối...

Tài nguyên nước khoáng

Trên đảo Cát Bà, tại xã Trân Châu có suối nước khoáng Thuồng Luồng chảy ra từ khe đá, lưu lượng lớn và trong mát. Ở Xuân Đám (Cát Bà) có 3 điểm mỏ nước khoáng. Nước khoáng Xuân Đám có nhiệt độ 38°C chảy quanh năm. Nước khoáng Cát Bà dùng để uống, có tác dụng giải khát, phòng và chữa một số bệnh như tuần hoàn, tiêu hoá, phụ khoa và hô hấp. Tại xã Bạch Đằng, Tiên Lãng có nguồn nước khoáng nóng tới 58°C, tự chảy từ lỗ khoan xuyên tầng đá vôi tại khoảng độ sâu 443-832 m. Đây là một trong 5 điểm khoáng tốt nhất của Việt Nam, đang được khai thác làm điểm du lịch.

Tài nguyên biển

Hệ thống vũng vịnh, tùng áng và vùng nước ven bờ

Vịnh Lan Hạ nằm ở Đông Nam đảo Cát Bà có chiều dài 10 km, chiều rộng 4 km; độ sâu trung bình 12 m, sâu nhất 30 m, diện tích mặt nước 33 km². Vịnh Lan Hạ nối liền với vịnh Hạ Long, một kỳ quan thiên nhiên của thế giới và Việt Nam, với hàng nghìn đảo đá nổi giữa biển xanh, muôn hình, muôn vẻ. Vịnh Lan Hạ là một trong những vịnh có giá trị đặc biệt đối với phát triển kinh tế (Nổi bật là du lịch và hàng hải), an ninh quốc phòng và bảo tồn tự nhiên (các giá trị mĩ học, di sản địa chất - địa mạo và đa dạng sinh học). Đây cũng là ngư trường truyền thống ven bờ của ngư dân Hải Phòng và Quảng Ninh. Vùng biển nông ven bờ có độ sâu khoảng 5-6 m đến 25-30 m là không gian hàng hải và là ngư trường tôm cá truyền thống như ngư trường Long Châu - Ba Lạt rộng 45 hải lý vuông và ngư trường Cát Bà rộng 400 hải lý vuông. Tuy nhiên, hiện nay ngư trường truyền thống của Hải Phòng và ngư trường ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ đang cạn kiệt rất nhanh các nguồn lợi thủy hải sản, do vậy cần hạn chế khai thác.

Hệ thống bán đảo và đảo ven bờ

Hệ thống đảo ven bờ Hải Phòng gồm trên 300 đảo lớn nhỏ, tổng diện tích 180 km². So với cả nước, số lượng đảo vùng bờ Hải Phòng đứng vị trí thứ 3, chỉ sau vùng bờ tỉnh Quảng Ninh và vùng bờ tỉnh Kiên Giang. Về diện tích, đảo Cát Bà ở Hải Phòng rộng thứ ba, chỉ sau đảo Phú Quốc ở Kiên Giang và đảo Cái Bầu ở Quảng Ninh. Quần đảo Cát Bà -Long Châu với khoảng 366 hòn đá vôi lớn nhỏ. Đảo Cát Bà rộng 144 km², cao nhất 331 m, là đảo đá vôi lớn nhất ở ven bờ Tây Biển Đông. Diện tích đảo Cát Bà là 176,06 km²; độ cao khi triều kiệt là 322 m, độ cao khi triều cao là 318,2 m; độ cao trung bình của đảo so với mực nước biển là 96,8 m, là đảo đá vôi lớn nhất ở ven bờ Tây Biển Đông, có vai trò che chắn và bảo vệ cho vùng nước cảng Hải Phòng và Lạch Huyện, cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp với nhiều giá trị ngoại hạng cỡ toàn cầu về địa chất học và đa dạng sinh học, xứng đáng là khu dự trữ sinh quyển của thế giới và sẽ trở thành công viên địa chất thế giới. Trong đó, 58 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam. Loài Voọc đầu vàng là loài đặc hữu. Đảo Cát Bà có giá trị vị thế tự nhiên cao, hỗ trợ phát triển du lịch sinh thái, cơ sở hạ tầng nghề cá khai thác xa bờ, nuôi trồng biển, neo trú tránh gió bão và đặc biệt là giá trị phòng thủ, vệ quốc. Đảo Long Châu có giá trị dẫn đường cho tàu, thuyền trên vịnh Bắc Bộ và vào cảng Hải Phòng, Cái Lân.

Đảo Cát Hải là đảo cát duy nhất ở vùng biển và ven bờ Việt Nam, do có mặt bằng thuận lợi, có vị trí đắc địa là nằm giữa lạch Nam Triệu và Lạch Huyện, án ngữ phía ngoài vùng cửa sông Bạch Đằng, nên giá trị tài nguyên vị thế hết sức to lớn, hiếm đảo gần bờ nào có được.

Đảo Hòn Dáu có rừng cây xanh tốt cùng với một quần thể đền miếu uy linh và các công trình ngoạn mục như Tháp đèn dẫn đường cho tàu biển vào cảng Hải Phòng, có Đài Khí tượng Thuỷ văn được xây dựng từ năm 1923. Hòn Dáu là một tháp canh ven biển, cảnh báo và phát hiện những vấn đề về an ninh, an toàn môi trường trên biển. Hòn Dáu là một điểm du lịch tuyệt vời, nhưng cần tổ chức không gian du lịch hợp lý để vẫn giữ được thiên nhiên biển - đảo.

Tài nguyên năng lượng tái tạo

Các nguồn năng lượng tái tạo của Hải Phòng rất đa dạng và phong phú, tuy nhiên có thể gộp thành 3 dạng: Bức xạ nhiệt, gió biển, sóng và thủy triều.

- Bức xạ nhiệt: Vùng bờ Hải Phòng có số giờ nắng trung bình của năm là 1.600-1.900 giờ và tỷ suất nắng đạt tới 40% là những điều kiện thuận lợi để thu nguồn năng lượng này theo các dạng như: Pin Mặt Trời để phát điện, hệ thống đun nước nóng hoặc lò sấy bằng năng lượng Mặt Trời, v.v...

- Gió biển: Ở các huyện vùng bờ và các đảo xa bờ như Bạch Long Vĩ, Cát Bà - Long Châu có tiềm năng để phát triển phong điện. Theo nghiên cứu của WB (2021), khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh là một trong hai khu vực của Việt Nam có thể phát triển điện gió ngoài khơi.

- Sóng và thủy triều: Nguồn năng lượng sóng biển vùng bờ Hải Phòng không lớn, không ổn định, biên độ thủy triều thấp với công nghệ hiện tại ít tiềm năng.

Tài nguyên rừng

Hải Phòng là thành phố có rừng, nhưng diện tích không lớn (17.000 ha, bằng gần 11% diện tích tự nhiên). Rừng Hải Phòng chủ yếu là rừng nguyên sinh đóng vai trò bảo tồn đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường sinh thái, không khai thác lâm sản làm kinh tế. Rừng nguyên sinh Cát Bà với thảm thực vật phong phú, đa dạng, nhiều loại thảo mộc quý hiếm như lát hoa, kim giao, đinh..., hệ động vật đa dạng với 36 loài chim (đại bàng, hải âu, đa đa, én,...), 28 loài thú (Khỉ mặt đỏ, khi mặt vàng, sơn dương, sóc đuôi đỏ, rái cá, mèo rừng,...). Đặc biệt là loài voọc Cát Bà, trên thế giới chỉ thấy ở Cát Bà. Bên cạnh đó, Đồ Sơn là một bán đảo đồi núi, rừng thông nối tiếp nhau vươn ra biển dài đến 5 km, có giá trị chủ yếu về phong cảnh và môi trường sinh thái. Trong đất liền có vùng Núi Voi, nằm ở phía Bắc thị xã Kiến An và Tràng Kênh (huyện Thuỷ Nguyên) là một quần thể thiên nhiên đa dạng, cấu tạo chủ yếu là núi đá vôi, nhiều hang động kỳ thú... là những địa danh nổi tiếng của thành phố Cảng.

Tài nguyên khoáng sản

Về mặt địa chất, khoáng sản ở Hải Phòng khá đa dạng, đã thống kê được 25 điểm khoáng sản, bao gồm các loại: Sa khoáng titan - zircon; đá vôi xây dựng; đá vôi ốp lát; thủy ngân; phosphorit; silic hoạt tính; sét, v.v... nhưng hầu hết các loại khoáng sản đều có trữ lượng nhỏ, không đáp ứng nhu cầu khai thác; ngoại trừ đá vôi xây dựng được đánh giá có trữ lượng lớn nhất, ước tính vào khoảng 185 triệu tấn; sét cho xây dựng và phục vụ sản xuất xi măng, vào khoảng 65 triệu m³. Tuy vậy, hai loại khoáng sản này cũng đã được khai thác với quy mô lớn nhưng chất lượng không cao, sớm cạn kiệt, gây ô nhiễm, phá vỡ cảnh quan. Về trung và dài hạn, Hải Phòng nằm trong nhóm các địa phương không thể phát triển dựa trên nền tảng các ngành Công nghiệp khai mỏ, mà phải chủ yếu dựa vào các ngành nghề công nghiệp dựa trên các loại tài nguyên khác.

Hệ sinh thái tự nhiên và đa dạng sinh học

Tổng số loài đã được biết đến tại các hệ sinh thái TP. Hải Phòng là 6.177 loài (sinh vật biển có 2.034 loài, sinh vật thủy sinh nội địa có 669 loài, sinh vật trên cạn có 3.474 loài). Trong đó có 85 loài động thực vật quý hiếm có trong Sách Đỏ Việt Nam (2007) (chiếm 1,42%) và 56 loài có trong Danh mục đỏ của tổ chức Bảo tồn thiên nhiên Quốc tế IUCN (2013) (chiếm 0,93%). Tổng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên trên địa bàn thành phố là 44.372 ha (Vườn Quốc gia Cát Bà, Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà, Khu bảo tồn biển Bạch Long Vĩ), đã và đang bảo vệ được 1.300 ha rừng nguyên sinh, hàng nghìn ha các loại rừng khác, bảo vệ động vật hoang dã, đặc hữu, nguy cấp quý hiếm.

Các hệ sinh thái rừng ở Hải Phòng bao gồm các hệ sinh thái rừng tự nhiên và rừng trồng. Trong tổng số 18 hệ sinh thái tiêu biểu Hải Phòng có 03 loại hệ sinh thái rừng là: (1) Hệ sinh thái rừng ngập mặn; (2) Hệ sinh thái rừng nguyên sinh trên đảo; (3) Hệ sinh thái rừng ngập nước.

Đất ngập nước ở Hải Phòng được chia thành 2 nhóm: (1) ĐNN lục địa được định hình và sử dụng khá ổn định; (2) ĐNN ven biển chịu ảnh hưởng quá trình biển, hết sức nhạy cảm và biến động cả về diện tích lẫn tính chất. ĐNN ở Hải Phòng phân bố theo 3 khu vực sinh thái khác nhau: (1) Hệ sinh thái rạn san hô; (2) Hệ sinh thái thảm cỏ biển; (3) Ngoài các hệ sinh thái rừng, rạn san hô và cỏ biển.

Điểm đặc sắc, có tính chất độc đáo, ngoại hạng, kỳ vĩ của hệ sinh thái của khu vực biển Hải Phòng, cụ thể là Cát Bà là sự đa dạng thành phần loài, đa dạng hệ sinh thái và sinh cảnh và đa dạng nơi cư trú và dạng sống. Trong khi đó, giá trị mỹ học thể hiện giá trị của các sinh cảnh và cảnh quan thiên nhiên, du lịch sinh thái và giải trí và giá trị cho cảm hứng nghệ thuật. Trên đảo Cát Bà, thảm thực vật phát triển thành rừng nhiệt đới nhiều tầng, được tôn vinh, bảo vệ chuyên biệt dưới dạng vườn quốc gia (VQG). Ở đây cũng là nơi có rừng nhiệt đới nguyên sinh nhiều tầng với các loài động thực vật quy hiếm và đặc hữu, hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước về các giá trị khoa học và thẩm mỹ. Việc kết hợp du lịch sinh thái rừng với tham quan các công trình kiến trúc, điển hình là hải đăng Hòn Dáu, công trình văn hoá và di tích lịch sử điển hình ở đảo Cát Bà càng làm tăng tính hấp dẫn cho vùng đất Hải Phòng.

Tài nguyên du lịch

Hải Phòng có nhiều tài nguyên du lịch tự nhiên phong phú gắn liền với biển và tài nguyên sinh thái. Ngoài ra, Hải Phòng còn là vùng đất lâu đời với nhiều truyền thống văn hóa, lịch sử, lễ hội quan trọng.

Tài nguyên du lịch tự nhiên

Vùng biển Hải Phòng có diện tích khoảng 4.000 km², gấp 2,6 lần diện tích đất đai của thành phố, chiếm 5,4% diện tích vịnh Bắc Bộ. Hải Phòng nằm ở ven bờ Tây Bắc vịnh Bắc Bộ có đường bờ biển dài khoảng 125 km, có 6 cửa sông chính đổ ra biển. Với 8/15 quận, huyện tiếp giáp với biển và 2 huyện đảo Cát Hải và Bạch Long Vĩ, tài nguyên du lịch biển tập trung chủ yếu ở Cát Bà, Đồ Sơn, một phần tại huyện đảo Bạch Long Vĩ.

Hải Phòng được biết đến là một thành phố Cảng lâu đời, với các điểm du lịch nổi tiếng Đồ Sơn, Cát Bà. Trong đó quần đảo Cát Bà hội tụ 5 danh hiệu quốc gia và quốc tế: Danh lam thắng cảnh - Di tích quốc gia đặc biệt, Khu Dự trữ sinh quyền thế giới, Vườn Quốc gia, Khu Bảo tồn Biển và là một trong những vịnh biển đẹp nhất thế giới. Với giá trị nổi bật về hệ sinh thái biển đảo, đa dạng sinh học và mỹ học. Hiện Hải Phòng đang đề nghị công nhận quần thể “vịnh Hạ Long - quần đảo Cát Bà” là Di sản thiên nhiên thế giới. Vịnh Lan Hạ nằm ở Đông Nam đảo Cát Bà có chiều dài 10 km, chiều rộng 4 km; độ sâu trung bình 12 m, sâu nhất 30 m, diện tích mặt nước 33 km². Vịnh Lan Hạ nối liền với vịnh Hạ Long, một kỳ quan thiên nhiên của thế giới và Việt Nam, với hàng nghìn đảo đá nổi giữa biển xanh, muôn hình, muôn vẻ. Vịnh Lan Hạ là một trong những vịnh có giá trị đặc biệt đối với phát triển kinh tế (Nổi bật là du lịch và hàng hải), an ninh quốc phòng và bảo tồn tự nhiên (các giá trị mỹ học, di sản địa chất).

Trong khi đó, bán đảo Đồ Sơn là khu nghỉ mát và tắm biển nổi tiếng ở miền Bắc từ lâu. Đảo Hòn Dấu hay Hòn Dáu là 1 đảo nguyên sinh thuộc khu du lịch giải trí Đồ Sơn, cách trung tâm thành phố tầm 20 km. Hòn đảo này được xem là khu nghỉ dưỡng, thư giãn tuyệt vời bởi vẻ đẹp bình yên và hoang sơ.

Vùng biển Hải Phòng 6.177 loài (sinh vật biển có 2.034 loài, sinh vật thủy sinh nội địa có 669 loài, sinh vật trên cạn có 3.474 loài). Với sự phong phú về hệ sinh thái, đa dạng về loài đã tạo cho Hải Phòng có một tiềm năng lớn cho việc phát triển du lịch sinh thái.

Núi Voi Hải Phòng là một trong những quần thể danh lam thắng cảnh sở hữu nhiều giá trị văn hóa lịch sử lâu đời của dân tộc ta, là một trong những công trình khảo cổ học lớn còn sót lại của nền văn hóa Đông Sơn, có lịch sử lâu đời nhất khoảng 2.500 trước của Việt Nam. Núi Voi Hải Phòng sở hữu rất nhiều hang động phong phú vẫn giữ được nét hoang sơ, huyền bí như: Động Long Tiên, Động Nam Tào, Động Họng Voi, Hang Cá Chép... được cấu tạo bởi rất nhiều lớp nhũ đá, măng đá.

Tài nguyên du lịch văn hóa

Hải Phòng có những sắc thái riêng không thể lẫn với bất kỳ thành phố nào khác trên cả nước. Nét đặc trưng của con người miền Bắc, nền văn minh lúa nước đặc trưng vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng hay những ảnh hưởng của sự đồng hoá nét châu Âu trong phong cách kiến trúc của TP. Hải Phòng. Bên cạnh những tài nguyên du lịch biển, Hải Phòng còn có nhiều tài nguyên nhân văn, là địa phương bảo tồn được nhiều loại hình nghệ thuật văn hóa dân gian phi vật thể.

Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, Hải Phòng có nhiều di tích lịch sử, văn hoá với kiến trúc độc đáo như: Quần thể Di tích lịch sử - Danh thắng Tràng Kênh, Đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đền Nghè, Đình Hàng Kênh, Chùa Dư Hàng, tháp Tường Long... Cùng với những làng nghề thủ công truyền thống còn lưu giữ được đến ngày nay. Đó chính là những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đặc sắc, tạo nên nét riêng của mảnh đất và con người Hải Phòng. Đặc biệt, sự kiện phát lộ hàng loạt bãi cọc tại Thủy Nguyên liên quan đến trận chiến Bạch Đằng lịch sử; Di chỉ Bãi cọc Cao Quỳ và các di tích gắn với chiến thắng Bạch Đằng có giá trị đặc biệt đối với lịch sử, văn hóa, khảo cổ và danh thắng mang tầm quốc gia.

Không chỉ nổi tiếng với các điểm di tích lịch sử, Hải Phòng còn được biết đến bởi những lễ hội truyền thống và lâu đời như: Hội Chọi Trâu (Đồ Sơn), Lễ hội Hoa phượng đỏ, Lễ hội Đua thuyền, Lễ hội Làng Cá Cát Bà (Cát Hải)... Các lễ hội thể hiện rõ nét về truyền thống xa xưa và đời sống hiện đại của người dân Hải Phòng.

Với vị trí địa lý và hệ thống giao thông quan trọng, thuận lợi và tiềm năng tài nguyên phong phú cả tự nhiên và nhân văn đã và sẽ làm cho Hải Phòng trở thành một địa danh du lịch nổi tiếng trong và ngoài nước, thúc đẩy Hải Phòng nhanh chóng trở thành một trong những trọng điểm du lịch hấp dẫn ở vùng ven biển miền Bắc./.

Cao Thị Minh Hảo
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
 
Thống kê truy cập
  • Đang online: 0
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 0
  • Tất cả: 0
image advertisement
image advertisement
image advertisement

Cổng Thông tin điện tử thành phố Hải Phòng

Cơ quan quản lý: Văn phòng Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng

Trưởng Ban biên tập: Chánh Văn phòng Trần Huy Kiên

 
 

Liên hệ

  18 Hoàng Diệu, Minh Khai, Hồng Bàng, Hải Phòng

  0225.3821.055 -   0225.3747.352

  congthongtindientu@haiphong.gov.vn

  fb.com/www.haiphong.gov.vn

  Zalo Cổng Thông tin điện tử thành phố